Bạn đang xem bài viết Triệu Chứng Của Lupus Ban Đỏ Hệ Thống được cập nhật mới nhất trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Triệu chứng của lupus ban đỏ hệ thống1.Các biểu hiện triệu chứng trên xương khớp của bệnh lupus ban đỏ hệ thống.
Đau khớp đơn thuần: vị trí của các khớp bị đau thường là tương tự như trong bệnh viêm khớp dạng thấp, tính chất của cơn đau là đau đơn thuần hoặc có thể có kèm theo sưng đau ở các khớp nhỏ, các khớp nhỡ, trong đó các khớp ở bàn tay đối xứng hai bên.
Viêm nhiều khớp cấp, bán cấp hoặc là mạn tính. Vị trí các khớp bị đau cũng tương tự như trong đau khớp đơn thuần nhưng mà lại không thấy có sự xuất hiện của hiện tượng hủy khớp xương, cũng không có thấy các hình ảnh bào mòn xương khớp trên phim chụp X-quang của người bệnh. Viêm khớp ở những bệnh nhân lupus ban đỏ người ta gọi là viêm khớp Jaccound. Mà điển hình của dạng này là bàn tay Jaccound, đây là một biến dạng khớp nhưng lại không có sự xuất hiện của hủy khớp xương, trường hợp này thì chiếm khoảng 10% các trường hợp bệnh nhân mắc bệnh lupus ban đỏ hệ thống. Có thể gặp các biến dạng khác ở bàn chân, khớp bàn ngón chân. Kén khoeo chân, viêm gân gấp ngón tay cũng có thể gặp.
Hoại tử đầu xương: theo các tài liệu của nước ngoài cho thấy, trường hợp bị hoại tử đầu xương do lupus ban đỏ hệ thống có biểu hiện từ 2.5% đến 52% các trường hợp tùy theo từng nghiên cứu khác nhau. Thường gặp hoai tử đầu xương với trật tự giảm dần như sau: đầu và lồi cầu xương đùi, mân xương chày, đầu và lồi cầu xương cánh tay, xương gót, đầu xương bàn ngón chân và tay, khối xương cổ tay. Tuy nhiên hiếm gặp trường hợp bị hoại tử đầu xương ở những bệnh nhân bị bệnh lupus ban đỏ hệ thống tại Việt Nam, kể cả các bệnh nhân này có sử dụng corticoid kéo dài.
2.Biểu hiện tại thận.
Tại thân bệnh biểu hiện ở khoảng 70-80% các trường hợp mắc bệnh lupus ban đỏ hệ thống. Có thể thấy xuất hiện các biểu hiện triệu chứng của viêm cầu thận, hội chứng thận hư hay chỉ đơn thuần là protein niệu, đái máu ở dạng vi thể. Suy thận thường là nguyên nhân gây ra tử vong cho bệnh nhân.
Sinh thiết thận: tình trạng tổn thương quyết định tiên lượng của bệnh nhân. Nếu là viêm cầu thận giữa hoặc màng ngoài thì tiên lượng bệnh tốt. Viêm cầu thận màng tăng sinh thì tiên lượng của bệnh nặng còn nếu là trường hợp tổn thương càng khu trú thì tiên lượng bệnh càng nhẹ; tổn thương bệnh mà càng lan tỏa thì tiên lượng bệnh.
copy ghi nguồn: https://health-guru.org/
link bài viết: Triệu chứng của lupus ban đỏ hệ thống
Mãn dục là nguồn gốc ảnh hưởng sức khỏe và chất lượng cuộc sống của các quý ông và hạnh phúc gia đình. Hơn nữa, khi khả năng sinh lý suy giảm đột ngột, có nhiều người còn không thừa nhận mình đã bị yếu, không chịu tìm hiểu và …
Sử dụng sản phẩm Formula for men có nguồn gốc từ thảo dược để bồi bổ sức khỏe, tăng cường sinh lý và hỗ trợ cải thiện các chứng bệnh “khó nói” của quý ông hiện đang là xu hướng mới được nhiều người ưa chuộng. Vậy trong viên uống …
Nếu như nói mãn kinh (tiền mãn kinh) là điều tất yếu xảy ra ở nữ giới bởi đây là quy luật của quá trình lão hóa, thì với cơ thể nam giới cũng tương tự và được gọi là quá trình mãn dục nam. Tuy nhiên, rất ít người …
Bài viết mới
Lupus Ban Đỏ Hệ Thống (Sle)
Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là một bệnh lý viêm tự miễn mạn tính có biểu hiện bệnh ở nhiều hệ cơ quan, xảy ra chủ yếu ở phụ nữ trẻ tuổi. Các biểu hiện thông thường có thể bao gồm đau khớp, hội chứng Raynaud, ban gò má và các ban khác, viêm màng phổi và viêm màng ngoài tim, tổn thương thận hoặc thần kinh trung ương, giảm các dòng tế bào máu. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng và huyết thanh học. Điều trị bệnh ở thể nặng, đang tiến triển, hoạt động cần phải dùng corticosteroid và đôi khi là ác thuốc ức chế miễn dịch.
Triệu chứng và Dấu hiệu
Các tổn thương da bao gồm ban đỏ cánh bướm ở gò má (ban phẳng hoặc sần) làm mất rãnh mũi má. Sự vắng mặt của nốt sẩn và mụn mủ giúp phân biệt SLE với trứng cá đỏ. Một dạng ban đỏ khác, là các nốt phẳng hoặc sẩn có thể gặp ở nhiều nơi trên cơ thể, bao gồm các vùng tiếp xúc với ánh nắng của mặt và cổ, ngực trên và khuỷu tay. Hiếm khi gặp phồng rộp da và loét da, mặt dù hay gặp các vết loét tái phát ở niêm mạc ( đặc biệt ở vùng trung tâm của vòm miệng, gần vùng nối giữa vòm cứng và vòm mềm, niêm mạc má và lợi, và vách mũi trước), đôi khi được gọi là biểu hiện niêm mạc của bệnh luput; các tổn thương này đôi lúc giống với hoại tử biểu bì do nhiễm độc.
Rụng tác lan tỏa hoay từng mảng hay gặp ở giai đoạn hoạt động của SLE. Viêm mô mỡ có thể gây nên những nốt tổn thương dưới da (đôi khi gọi là viêm mô mỡ của bệnh luput). Các tổhan thương da của viêm mạch thường có các ban đỏ lấm chấm ở bàn tay và các ngón tay, ban đỏ quanh móng tay, hoại tử nếp gấp móng, mày đay và ban xuất huyết có thể sờ thấy được. Ban xuất huyết có thể xuất hiện thứ phát sau hạ tiểu cầu. Mẫn cảm với ánh sáng gặp ở một số bệnh nhân.
Lupus ban đỏ tumidus có đặc điểm là các mảng lớn màu hồng không để lại sẹo và/hoặc các nốt sần, đôi khi là các ban vòng ở các vùng tiếp xúc với ảnh sáng.
Bệnh lupus Chilblain có đặc điểm là các nốt đau, có màu đỏ tươi tới màu đỏ sẫm ở ngón tay, ngón chân, mũi, tai xuất hiện khi thời tiết lạnh. Một số bệnh nhân SLE có mảng liken phẳng.
Các biểu hiện sản khoa bao gồm mất thai ở giai sớm và muộn. Ở bệnh nhân có kháng thể kháng phospholipid, nguy cơ sảy thai tái phát tăng lên. Mang thai có thể thành công (xem Lupus ban đỏ hệ thống khi mang thai), đặc biệt là sau 6 đến 12 tháng lui bệnh, nhưng thường có các đợt cấp trong quá trình mang thai và giai đoạn sau sinh. Nên bắt đầu mang thai khi đạt được lui bệnh. Trong thời kỳ mang thai, bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu về đợt cấp hoặc các triệu chứng huyết khối và được theo dõi bởi đội ngũ bác sỹ nhiều chuyên khoa bao gồm cả bác sỹ sản khoa chuyên khoa sâu về thai nghén có nguy cơ cao. Phụ nữ có kháng thể SSA dương tính nên có siêu âm tuần thai ở tuần 18 và tuần 26 để đánh block tim bẩm sinh.
Các biểu hiện huyết học bao gồm thiếu máu (tan máu tự miễn), giảm bạch cầu (thường là giảm bạch cầu lympho, với < 1500 tế bào /μL) và giảm tiểu cầu (đôi khi gặp tình trạng giảm tiểu cầu giảm tự miễn nguy hiểm). Huyết khối động mạch hay tĩnh mạch tái phát, giảm tiểu cầu và có nguy cơ cao xảy ra các biến chứng sản khoa ở bệnh nhân có kháng thể kháng phospholipid. Huyết khối có thể gây nên nhiều biến chứng của SLE, bao gồm các biến chứng sản khoa. Hội chứng kích hoạt đại thực bào có thể xảy ra.
Biểu hiện của đường tiêu hóa có thể do viêm mạch ở ruột hoặc giảm nhu động ruột. Ngoài ra, viêm tụy có thể là một triệu chứng của SLE hoặc là hậu quả của điều trị corticosteroid liều cao hoặc azathioprine. Các biểu hiện có thể bao gồm đau bụng do viêm huyết thanh, buồn nôn, nôn mửa, biểu hiện thủng ruột, và giả tắc ruột. SLE hiếm khi gây ra tổn thương ở nhu mô gan.
Xét nghiệm giúp phân biệt SLE từ các bệnh mô liên kết khác. Xét nghiệm thường quy bao gồm:
Hầu hết các bác sĩ lâm sàng đều dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán SLE của Hội thấp khớp học Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn của Hiệp hội các trung tâm lâm sàng quốc tế về bệnh Luput hệ thống (SLICC), do một nhóm chuyên gia về SLE xây dựng, hiện tại hay được sử dụng hơn.( 1). Việc chẩn đoán SLE theo các tiêu chuẩn của SLICC yêu cầu một trong hai điều sau:
Tiêu chuẩn SLICC để chẩn đoán SLE *
Giảm tiểu cầu (<100.000 / mm 3) trong ít nhất một mẫu xét nghiệm khi không có các nguyên nhân khác được biết đến như thuốc, huyết áp kịch phát, và ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối
Kháng thể Antiphospholipid dương tính khi:
Kết quả xét nghiệm dương tính khi yếu tố chống đông lupus dương tính
Kết quả dương tính giả khi làm test huyết thanh giang mai
Tăng nồng độ kháng thể kháng cardiolipin (loại IgA, IgG hoắc IgM) mức độ trung bình hoặc cao.
Kết quả xét nghiệm dương tính với kháng beta 2-glycoprotein I (IgA, IgG, hoặc IgM)
* Để chẩn đoán phải đạt ít nhất 4 trong số 17 tiêu chí, bao gồm ít nhất 1 tiêu chí lâm sàng và 1 tiêu chí miễn dịch hoặc viêm thận lupus đã được chứng minh bằng sinh thiết.
Được điều chỉnh từ Petri M, Orbai AM, Alarcón GS, et al: Xây dựng và xác nhận Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Lupus ban đỏ hệ thống của Hiệp hội quốc tế các trung tâm lâm sàng về bệnh Luput ban đỏ. Viêm khớp 64(8):2677-2686, 2012.
Các xét nghiệm khác giúp theo dõi mức độ nặng của bệnh và định hướng điều trị. Nồng độ bổ thể trong huyết thanh (C3, C4) thường giảm khi bệnh ở giai đoạn hoạt động và thường thấp nhất ở bệnh nhân viêm thận hoạt động. Máu lắng tăng trong giai đoạn hoạt động của bệnh. Nồng độ protein phản ứng C không phải luôn tăng cao.
1. Petri M, Orbai AM, Alarcón GS, et al: Xây dựng và xác nhận Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Lupus ban đỏ hệ thống của Hiệp hội quốc tế các trung tâm lâm sàng về bệnh Luput ban đỏ. Viêm khớp 64(8):2677-2686, 2012. doi: 10.1002 / art.34473.
Hydroxychloroquine cho tất cả các bệnh nhân bị SLE
Để điều trị đơn giản, SLE nên được phân loại là nhẹ (ví dụ như sốt, viêm khớp, viêm màng ngoài tim, nhức đầu, phát ban) hoặc nặng (ví dụ như chứng thiếu máu tan máu, xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, tràn dịch màng phổi và màng ngoài tim, suy thận nặng, viêm mạch cấp tính ở chi hoặc đường tiêu hóa, tổn thương thần kinh trung ương, chảy máu phế nang lan tỏa).
Thuốc chống sốt rét hydroxychloroquine được chỉ định cho tất cả các bệnh nhân bị SLE ở bất kỳ mức độ nặng nào của bệnh vì thuốc làm giảm đợt cấp và giảm nguy cơ tử vong của bệnh ( 1); tuy nhiên, hydroxychloroquine không được sử dụng ở bệnh nhân Thiếu G6PD bởi vì nó có thể gây tan huyết.
Điều trị bao gồm các phác đồ kiểm soát biểu hiện nặng cấp tính, sau đó là phác đồ duy trì. Corticosteroids là thuốc điều trị đầu tiên. Kết hợp prednisone và các thuốc ức chế miễn dịch khác thường được sử dụng trong lupus có tổn thương thần kinh trung ương nặng, hoạt động, viêm thanh mạc tái phát, viêm mạch, tổn thương da không đáp ứng với hydroxychloroquine, chảy máu phế nang lan tỏa, triệu chứng tim hoặc viêm thận luput hoạt động.
Các biến chứng với các bằng chứng mạnh nhất cho viêm thận luput. Methylprednisolone 1 g bằng cách truyền tĩnh mạch chậm (1 giờ) trong 3 ngày thường là điều trị ban đầu. Sau đó, uống duy trì prednisone liều 40 đến 60 mg một lần / ngày, nhưng liều có thể thay đổi theo biểu hiện của SLE. Cyclophosphamide hoặc mycophenolate mofetil (đặc biệt là ở người da đen) thường được chỉ định. Khi bị tổn thương thận nặng, cyclophosphamide thường được chỉ định truyền tĩnh mạch ngắt quãng thay vì uống hàng ngày, ví dụ truyền với liều khoảng 500mg-1g/ m 2 (kết hợp với mesna và dịch để ngăn ngừa viêm bàng quang do thuốc) hàng tháng trong vòng 6 tháng và sau đó là 3 lần trong 18 tháng (tần suất ít hơn nếu có độc tính về thận hoặc máu-xem Bảng: Quy trình truyền tĩnh mạch Cyclophosphamide và Mesna ).
Quy trình truyền tĩnh mạch Cyclophosphamide và Mesna
Giám sát liên tục sự dung nạp thuocs trong toàn bộ quy trình truyền.
1. Sử dụng 50 mL dung dịch muối sinh lý bình thường, trộn 10mg ondansetron và 10mg dexamethasone 10 mg và truyền tĩnh mạch trong 10 đến 30 phút.
2. Sử dụng 250 mL dung dịch muối sinh lý bình thường, trộn với 250-500 mg mesna (dùng để kết hợp acrolein, chất chuyển hoá của cyclophosphamide gây kích thích bàng quang) và pha thêm 500-1000 mL dung dịch muối sinh lý để truyền trước khi truyền cyclophosphamide.
3. Dùng 250 mL dung dịch muối sinh lý , trộn với cyclophosphamide liều 500-1000 mg / m 2 và truyền qua 1 h.
4. Dùng 250 mL dung dịch muối sinh lý bình thường, trộn với mesna 250-500 mg và tiêm liều thứ hai mesna. Tổng liều mesna sử dụng nên bằng với tổng liều cyclophosphamide . Bệnh nhân nên được khuyến khích uống nhiều nước và để bàng quang trống rỗng mỗi 2 giờ. Bệnh nhân phải uống ondansetron 8 mg vào sáng hôm sau.
Trong lupus có tổn thương thần kinh trung ương, khuyến cáo điều trị dựa vào giai đoạn. và thường dùng cyclophosphamide hoặc IV rituximab.
Đối với giảm tiểu cầu kháng thuốc, truyền tĩnh mạch IgG 400 mg / kg một lần / ngày trong 5 ngày liên tiếp có thể có hiệu quả, đặc biệt nếu không được dùng corticosteroid liều cao (ví dụ như ở bệnh nhân bị nhiễm trùng hoạt động).
Bệnh nhân có bệnh thận giai đoạn cuối có thể được chỉ định ghép thận, một liệu pháp thay thế chạy thận, với tỷ lệ thành công cao, đặc biệt nếu bệnh đã được thuyên giảm.
Cải thiện mức độ nặng của SLE thường đạt được sau 4 đến 12 tuần điều trị. Huyết khối hoặc tắc mạch não, mạch phổi hay mạch tạng thường cần phải điều tị bằng heparin ngắn ngày và điều trị kéo dài hơn với warfarin. Nếu chẩn đoán hội chứng chống phospholipid, thường phải điều trị cả đời. Mục tiêu INR thường là 2 đến 3.
Phụ nữ mang thai nên duy trì hydroxychloroquine trong suốt thai kỳ, và aspirin liều thấp cũng được khuyến cáo. Khi có biểu hiện lâm sàng của hội chứng kháng phospholipid, như có huyết khối trước đó, nên dùng liệu pháp chống đông máu với heparin trọng lượng phân tử thấp hoặc không phân đoạn. Nếu phụ nữ có thai có kháng thể kháng phospholipid dương tính và bị thai lưu hoặc sẩy thai ở 2 tháng đầu, có thể dự phòng bằng heparin trọng lượng phân tử thấp hoặc không phân đoạn trong suốt thai kỳ và 6 tuần sau sinh. Khi bệnh nhân có huyết thanh dương tính nhưng trước đó không có các biến chứng sản khoa hay huyết khối, các khuyến cáo dùng thuốc chống đông thường ít rõ ràng. Sự kết hợp điều trị và theo dõi của các bác sỹ thuộc 3 chuyên khoa: huyết học, sản và khớp là rất quan trọng ở những bệnh nhân này.
1. Alarcón GS, McGwin G, Bertoli AM, et al: Ảnh hưởng của hydroxychloroquine đến sự sống còn của bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống: Số liệu từ LUMINA, một nghiên cứu đa trung tâm Hoa Kỳ (LUMINA L). Ann Rheum Dis 66(9):1168-1172, 2007. doi: 10.1136 / ard.2006.068676.
Điều trị tất cả các bệnh nhân bằng hydroxychloroquine hoặc thuốc sốt rét khác và, đối với bệnh nhẹ, dùng NSAIDs nếu cần.
Sử dụng corticosteroids cho SLE mức độ hoạt động vừa hoặc nặng và dùng thuốc ức chế miễn dịch cho viêm thận lupus hoạt động, lupus trung ương, biểu hienj da không đáp ứng với hydroxychloroquine, xuất huyết phế nang lan tỏa, viêm mạch, viêm thanh mạc tái phát, hoặc tổn thương tim.
DLE, đôi khi còn được gọi là lupus đỏ da mãn tính, có các thay đổi ở da như là một triệu chứng của luput nhưng không có tổn thương hệ thống khác. Các tổn thương da bắt đầu như những mảng hồng ban và tiến triển thành các sẹo teo da. Tổn thương tập trung thành từng mảng ở những vùng da tiếp xúc với ánh sáng như mặt, da đầu và tai. Nếu không điều trị, tổn thương lan rộng và phát triển tới vùng trung tâm thân mình gây teo da và sẹo. Có thể có rụng tóc lan tỏa. Tổn thương niêm mạc có thể nổi bật, đặc biệt là trong miệng. Đôi khi các tổn thương có thể phì đại và có thể giống với liken phẳng (gọi là lupus khổng lồ).
Bệnh nhân có ban dạng đĩa điển hình nên được làm thêm các xét nghiệm về bệnh SLE. Kháng thể kháng dsDNA hầu như âm tính trong DLE. Mặc dù nó không có khác biệt DLE với SLE, nhưng sinh thiết có thể loại trừ các rối loạn khác (ví dụ, u lymphoma hoặc sarcoidosis). Sinh thiết ở bờ các tổn thương da hoạt động.
Điều trị sớm DLE có thể ngăn ngừa tổn thương teo da vĩnh viễn. Nên hạn chế tiếp xúc với ánh sáng mặt trời hoặc tia cực tím (ví dụ sử dụng kem chống nắng mạnh khi ở ngoài trời). Bôi thuốc corticosteroid dạng mỡ tại chỗ (đặc biệt đối với da khô) hoặc kem (ít dầu nhờn hơn so với thuốc mỡ)từ hai tới 4 lần một ngày (ví dụ triamcinolone acetonide 0.1 hoặc 0.5%, fluocinolone 0.025 hoặc 0.2%, flurandrenolit 0.05%, betamethasone valerate 0.1% và đặc biệt là betamethasone dipropionate 0,05%) thường gây ra các tổn thương nhỏ trên da; không nên dùng các thuốc này quá nhiều ở mặt (vì có thể gây teo da). Các vết thương dai dẳng có thể được phủ bằng băng nhựa tráng với flurandrenolit. Ngoài ra, có thể tiêm trong dai triamcinolone acetonide 0.1% tác dụng kéo dài (< 0.1 mL /một vị trí) có thể giải quyết các tổn thương, nhưng teo da thứ phát thường xảy ra. Thuốc chống sốt rét (ví dụ, hydroxychloroquine 5 mg / kg uống một lần / ngày hoặc 2,5 mg / kg uống hai lần/ngày) có hiệu quả điều trị, bao gồm các tổn thương ở mặt. Trong những trường hợp kháng thuốc, có thể cần phải phối hợp thuốc (ví dụ, hydroxychloroquine 200 mg / ngày với quinacrine 50 đến 100 mg uống một lần / ngày) trong nhiều năm.
SCLE là một dạng biến thể của SLE, có tổn thương dạng nốt sần ở da. Bệnh nhân mắc chứng SCLE có các ban tái phát nhiều lần. Ban vòng hoặc dạng vảy có thể xuất hiện ở mặt, cánh tay và thân mình. Các tổn thương thường nhạy cảm với ánh sáng và có thể giảm sắc tố nhưng ít khi để lại sẹo. Viêm khớp và mệt mỏi hay gặp ở SCLE, nhưng không có biểu hiện thần kinh và thận. Bệnh nhân có thể có kháng thể kháng nhân dương tính hoặc âm tính. Hầu hết đều có kháng thể kháng Ro (SSA). Trẻ sơ sinh có mẹ có kháng thể Ro có thể có SCLE bẩm sinh hoặc block tim bẩm sinh. SCLE được điều trị giống như SLE.
Biểu Hiện Và Triệu Chứng Của Bệnh Lupus Ban Đỏ Hệ Thống
Biểu hiện và triệu chứng của bệnh Lupus ban đỏ hệ thống giống và dễ nhầm với các bệnh khác thường là sốt, đau khớp, mỏi cơ, mất khả năng nhận thức tạm thời
Lưu ý quan trọng: Bài viết này nhằm cung cấp kiến thức mang tính chất tham khảo. Nếu bạn hoặc người thân có triệu chứng hoặc những vấn đề còn mơ hồ, để hiểu rõ cụ thể trường hợp của bạn/ người thân, Hello Doctor hỗ trợ qua điện thoại hoặc nhắn tin trên facebook. Hello Doctor sẽ cố gắng hỗ trợ tốt nhất cho từng trường hợp một cách cụ thể.
Bác sĩ tham vấn thông tin:
✍ Các bác sĩ Cơ Xương Khớp Hello Doctor
유 Chat Bác sĩ trên Facebook
Triệu chứng bệnh Lupus ban đỏ hệ thống
Lupus ban đỏ hệ thống là một trong những bệnh có các triệu chứng giống và dễ bị nhầm với các bệnh khác (được gọi là “nhóm bệnh bắt chước”). Bệnh này là một ví dụ điển hình trong chẩn đoán phân biệt, bởi vì các triệu chứng của nó rất khác nhau và xuất hiện không lường trước được. Vì thế bệnh rất khó chẩn đoán, nhiều người phải chịu đựng những triệu chứng của bệnh lupus ban đỏ hệ thống mà không rõ nguyên nhân và không được điều trị đúng trong nhiều năm.
Những triệu chứng ban đầu và kéo dài phổ biến bao gồm sốt, khó ở, đau khớp, mỏi cơ, mệt mỏi, và mất khả năng nhận thức tạm thời. Bởi vì các triệu chứng này cũng thường thấy ở những bệnh khác, chúng không phải là những tiêu chí chẩn đoán bệnh lupus ban đỏ hệ thống. Tuy nhiên, khi xảy ra cùng với những triệu chứng khác (xem sau đây), chúng có thể được coi là những gợi ý cho bác sĩ nghĩ đến bệnh này.
1. Biểu hiện về da liễu
Khoảng 30% bệnh nhân có các triệu chứng về da liễu (và 65% có các triệu chứng đó trong một thời điểm nào đó), với khoảng 30% từ 50% bị triệu chứng điển hình của bệnh là phát ban má (hay phát ban hình bướm). Một số có thể bị vảy nến màu đỏ và dày trên da (gọi là lupus dạng đĩa). Rụng tóc; loét miệng, mũi và âm đạo; và các thương tổn trên da cũng là những dấu hiệu có thể xuất hiện.
2. Biểu hiện về cơ xương
Triệu chứng được khám nhiều nhất là đau khớp, những khớp nhỏ ở tay và cổ tay thường bị ảnh hưởng nhất, mặc dù tất cả các khớp đều có nguy cơ. Tổ chức về Bệnh Lupus ở Hoa Kỳ ước lượng có khoảng 90% bệnh nhân bị đau khớp hoặc cơ trong một thời điểm nào đó trong quá trình phát triển bệnh. Không giống như viêm khớp dạng thấp, viêm khớp trong lupus ít gây tàn tật và thường không gây hủy hoại trầm trọng cho khớp
3. Biểu hiện về huyết học
Thiếu máu và thiếu sắt có thể xảy ra ở 50% các ca bệnh. Số lượng tiểu cầu và bạch cầu thấp có thể do bệnh gây ra hoặc do tác dụng phụ của các loại thuốc điều trị gây ra.
4. Biểu hiện về tim
Bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống có thể bị viêm các phần khác nhau ở tim, ví dụ như viêm màng ngoài tim (còn gọi là viêm ngoại tâm mạc), viêm cơ tim, và viêm màng trong tim (còn gọi là viêm nội tâm mạc). Viêm màng trong tim ở bệnh này thuộc dạng không viêm nhiễm điển hình (viêm màng trong tim Libman-Sacks) và có thể ở van hai lá hoặc van ba lá. Xơvữa động mạch cũng biểu hiện nhiều hơn và tiến triển nhanh hơn ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống.
5. Biểu hiện về phổi
Viêm phổi và màng phổi có thể gây ra bệnh viêm màng phổi, tràn dịch màng phổi, viêm phổi lupus, bệnh xơcứng khe phổi mãn tính (chronic diffuse interstitial lung disease), tăng huyết áp phổi, nghẽn mạch phổi, xuất huyết phổi, và hội chứng co phổi (shrinking lung syndrome).
6. Biểu hiện về thận
Huyết niệu (có máu trong nước tiểu) hoặc protein niệu (có protein trong nước tiểu) là dấu hiệu về thận duy nhất. Việc hủy hoại thận cấp tính hoặc mãn tính có thể phát triển viêm thận lupus, dẫn tới suy thận cấp tính hoặc giai đoạn cuối. Nếu chẩn đoán ra và điều trị sớm lupus ban đỏ hệ thống thì suy thận giai đoạn cuối chỉ xảy ra ở ít hơn 5% các ca bệnh.
Dấu hiệu xác nhận về mô học của bệnh lupus ban đỏ là viêm cầu thận màng với hình ảnh bất thường có dạng “vòng dây”. HÌnh ảnh đó là do ứ đọng các phức hợp miễn dịch dọc theo lớp màng nền cầu thận (glomerular basement membrane), tạo ra hình ảnh hạt điển hình khi xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang.
7. Biểu hiện về thần kinh-tâm thần
Biểu hiện thần kinh – tâm thần mà bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống mắc phải nhiều nhất là đau đầu, mặc dù vậy, người ta còn đang tranh cãi việc có loại đau đầu lupus đặc hiệu riêng không. Các biểu hiện thần kinh – tâm thần phổ biến khác là sa sút trí tuệ, rối loạn tính khí, các bệnh về mạch máu não, động kinh, bệnh đa dây thần kinh, rối loạn lo âu, và loạn tâm thần (psychosis).
Khi bị mắc bệnh Lupus, bạn cần được điều trị bệnh kịp thời. Bạn có thể tham khảo các phương pháp điều trị bệnh tại Phương pháp điều trị bệnh Lupus ban đỏ hệ thống.
Lupus là một căn bệnh rất khó phát biện bỏi các dấu hiệu và triệu chứng của nó rất khác nhau và xuất hiện không lường trước được. Bạn có thể liên hệ với Hello Doctor theo số điện thoại 1900 1246 để được các bác sĩ nhiều năm kinh nghiệm giúp đỡ và hỗ trợ.
Lupus Ban Đỏ Hệ Thống Là Bệnh Gì?
Tác giả: Giang Lê, Tham vấn y khoa: BS. Nguyễn Thường Hanh.
Lupus ban đỏ hệ thống hay lupus ban đỏ là bệnh tự miễn, làm viêm mô liên kết và có thể tổn hại đến các cơ quan khác trong cơ thể. Bệnh xảy ra khi hệ miễn dịch tự sản xuất kháng thể tự tấn công vào các cơ quan trong cơ thể. Bệnh ảnh hưởng đến khớp, da, phổi, tim, mạch máu, thận, hệ thần kinh và tế bào máu. Lupus ban đỏ còn gây ra hiện tượng Raynaud (tình trạng mạch máu bị co thắt lại khiến ngón tay, ngón chân, tai và mũi bị đau và tím tái).
Bệnh thường có hai giai đoạn bệnh nặng và nhẹ xen kẽ nhau. Đa số các trường hợp nhiễm bệnh không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống.
Những ai thường mắc phải bệnh lupus ban đỏ?
Cứ 2000 người thì có 1 người bị lupus ban đỏ. Trong đó số bệnh nhân nữ bị nhiều gấp 5 lần so với số bệnh nhân nam, đặc biệt với phụ nữ đang mang thai hoặc trong thời kỳ kinh nguyệt, các triệu chứng sẽ nặng thêm. Bệnh nhân lupus ban đỏ phần lớn là từ 15 đến 40 tuổi. Người Mỹ gốc Phi và người Châu Á và người có tổ tiên gốc Tây Ban Nha mắc bệnh nhiều hơn người da trắng.
Những dấu hiệu và triệu chứng của bệnh lupus ban đỏ là gì?
Dấu hiệu của lupus ban đỏ xuất hiện phụ thuộc vào cơ quan mắc bệnh. Những triệu chứng ban đầu bao gồm:
Mệt mỏi;
Đau khớp và sưng hay xơ cứng khớp, thường ở tay, thắt lưng và đầu gối;
Bị phát ban ở phần cơ thể tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, thường là ở mặt (gò má và mũi);
Hiện tượng Raynaud làm cho đầu ngón tay, ngón chân tím tái và đau đớn khi tiếp xúc với lạnh;
Viêm màng phổi, gây ra cơn đau khi thở cùng thở gấp;
Thận bị ảnh hưởng có thể dẫn đên cao huyết áp và suy thận.
Lupus ban đỏ ảnh hưởng đến trí nhớ và tâm trạng và gây ra stress hay lẫn lộn.
Nguyên nhân gây ra bệnh lupus ban đỏ là gì?
Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được rõ, nhưng yếu tố môi trường và di truyền có thể gia tăng nguy cơ mắc bệnh. Người tiếp xúc với ánh nắng mặt trời hoặc sống trong môi trường bị phơi nhiễm virus, hoặc thường gặp stress có nguy cơ mắc bệnh. Hormone và giới tính cũng là một phần nguyên nhân. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hormone estrogen có vai trò trong việc hình thành bệnh.
Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ mắc bệnh lupus ban đỏ?
Những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc lupus ban đỏ bao gồm:
Giới tính: lupus phổ biến hơn ở phụ nữ, đặc biệt là khi mang thai và có kinh nguyệt;
Thường xuyên tắm nắng hoặc tiếp xúc trực tiếp với nắng;
Bị nhiễm trùng;
Dùng thuốc đặc trị, đặc biệt là thuốc chống động kinh, hạ huyết áp và kháng sinh;
Tuổi tác: mặc dù lupus ảnh hưởng đến mọi người ở mọi lứa tuổi, nhưng thường được chẩn đoán trong độ tuổi từ 15 và 40.
Điều trị bệnh lupus ban đỏ
Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ.
Những phương pháp nào dùng để điều trị bệnh lupus ban đỏ?
Cách điều trị Lupus ban đỏ hệ thống phụ thuộc vào triệu chứng và vị trí bị phát ban. Bác sĩ có thể chỉ định cho bạn thuốc kháng viêm không chứa steroid.
Ngoài ra, thuốc ức chế miễn dịch như prednisone cũng có hiệu quả khá tốt đối với lupus ban đỏ.
Nếu bệnh vẫn không tiến triển, bác sĩ sẽ dùng thuốc đặc trị như hydroxychloroquine trị sốt rét và viêm khớp, methotrexate trị thấp khớp, azathioprine và cyclophosphamide ức chế miễn dịch.
Những kỹ thuật y tế nào dùng để chẩn đoán bệnh lupus ban đỏ?
Bác sĩ chẩn đoán lupus đỏ từ bệnh sử, khám lâm sàng và làm xét nghiệm máu.
Các xét nghiệm máu bao gồm đo tốc độ lắng hồng cầu (ESR), xét nghiệm công thức máu (CBC), kháng thể kháng nhân (ANA) và xét nghiệm nước tiểu. Đo tốc độ lắng hồng cầu để kiểm tra mức độ viêm. Xét nghiệm công thức máu để xác định số tế bào hồng cầu và tiểu cầu.
Bác sĩ có thể chỉ định xét nghiệm anti-dsDNA chuyên dùng để chẩn đoán Lupus ban đỏ hệ thống.
Người mắc bệnh lupus ban đỏ sống được bao lâu?
Khi mắc bệnh, chúng ta thường lo lắng, không biết mình mắc bệnh có nặng không. Tương tự vậy, người mắc bệnh lupus thường có hai vấn đề họ luôn quan tâm: bệnh lupus ban đỏ có chữa được không? và người mắc bệnh lupus ban đỏ sống được bao lâu?.
Trên thực tế, vẫn chưa có một phương pháp nào giúp điều trị hoàn toàn bệnh lupus ban đỏ. Việc điều trị chỉ giúp giảm nhẹ các triệu chứng, từ đó bạn có thể sống thêm ít nhất 10 năm, thậm chí cũng có người sống lâu bằng người khỏe mạnh. Điều quan trọng là bạn cần phải tuân theo mọi hướng dẫn của bác sĩ để cải thiện bệnh tốt hơn.
Những thói quen sinh hoạt nào giúp bạn hạn chế diễn tiến của bệnh lupus ban đỏ?
Không hút thuốc. Hút thuốc làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch và có thể làm trầm trọng thêm các tác động của lupus về tim và mạch máu của bạn;
Có chế độ ăn uống lành mạnh, bổ sung vitamin D và omega-3. Đôi khi bạn cần kiêng cữ trong chế độ ăn uống, đặc biệt là nếu huyết áp cao, suy thận hoặc gặp các vấn đề tiêu hóa;
Tập thể dục đều đặn để cơ thể tăng sức dẻo dai và đề kháng tốt hơn;
Tránh tiếp xúc ánh nắng trực tiếp. Bạn có thể dùng kem chống nắng có SPF 50 hoặc cao hơn nếu bắt buộc phải đi ra ngoài;
Nghỉ ngơi vừa đủ. Nếu bị lupus ban đỏ hệ thống, bạn sẽ thấy mệt ngay cả khi cơ thể không cần nghỉ ngơi, do đó, bạn chỉ nên nghỉ vừa đủ và cố gắng vận động nhẹ nhàng thay vì nằm;
Dùng thuốc theo chỉ dẫn. Gọi bác sĩ nếu gặp tác dụng phụ của thuốc.
Người mắc lupus ban đỏ nên ăn gì?
Chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện bệnh. Một số loại thực phẩm mà người bệnh lupus ban đỏ nên bồ sung hàng ngày như:
Rau xanh và trái cây
Thực phẩm giàu canxi và vitamin D như phô mai, sữa, sữa chua,… giúp ngăn ngừa loãng xương
Ngũ cốc nguyên hạt và lúa mì
Thực phẩm giàu protein và ít chất béo
Nước: bạn nên uống đủ 1,5-2l nước mỗi ngày
Bên cạnh đó, người bệnh cũng không nên ăn một số loại thực phẩm như:
Thực phẩm nhiều chất béo
Đồ uống có caffeine
Thực phẩm nhiều muối
Rượu
Lupus ban đỏ thường gặp ở nữ giới. Đây là một bệnh tự miễn và biểu hiện bệnh rất đa dạng, do đó đôi khi chẩn đoán bệnh rất khó khăn. Điều trị bệnh chủ yếu là sử dụng nhóm thuốc ức chế miễn dịch. Khi bệnh bùng phát, bác sĩ sẽ sử dụng thuốc theo phác đồ tấn công trong 6-8 tuần cho đến khi lui bệnh và chuyển sang phác đồ điều trị duy trì. Các thuốc ức chế miễn dịch có nhiều tác dụng phụ, do đó bạn nên sử dụng theo hướng dẫn của bác sĩ và tái khám thường xuyên ngay cả khi lui bệnh.
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phương pháp hỗ trợ điều trị tốt nhất.
Hello Bacsi không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa.
Cập nhật thông tin chi tiết về Triệu Chứng Của Lupus Ban Đỏ Hệ Thống trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!