Bạn đang xem bài viết Triệu Chứng Bệnh Viêm Gan B Ở Trẻ Em được cập nhật mới nhất trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Triệu chứng bệnh viêm gan B ở trẻ em, Do hệ thống miễn dịch của trẻ em phát triển chưa hoàn thiện, nên sau khi bị lây nhiễm virus viêm gan B, năng lực nhận biết và loại bỏ viêm gan B tương đối kém, dễ phát triển thành viêm gan B mãn tính. Viêm gan B ở trẻ em trên lâm sàng có nhiều đặc điểm khác với người lớn và việc chữa viêm gan B mãn tính ở trẻ em cũng phức tạp hơn khá nhiều.
CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA BỆNH VIÊM GAN B Ở TRẺ EM
CHĂM SÓC CHO TRẺ EM MẮC VIÊM GAN B NHƯ THẾ NÀO?
Do trẻ em nhỏ tuổi, không tự lo liệu được sinh hoạt của mình, nên ngoài việc đưa con đi khám và áp dụng phương pháp điều trị theo hướng dẫn của bác sĩ, bố mẹ cần quan tâm chăm sóc con một cách đúng đắn. Cần chú ý đến những điểm sau đây khi chăm sóc cho trẻ em mắc viêm gan B:
Nghỉ ngơi: Nghỉ ngơi có thể làm tăng thêm lượng máu lưu thông ở Gan, cải thiện dinh dưỡng cho tế bào gan, có lợi cho việc phục hồi viêm gan nên việc nghỉ ngơi là rất cần thiết. Khi viêm gan ở thời kỳ cấp tính, bố mẹ cần hạn chế trẻ em hoạt động, đối với những trẻ hiếu động, cần nghĩ cách kể chuyện cho chúng nghe, cho chúng xem tivi, sắp xếp thời gian hoạt động và nghỉ ngơi của chúng một cách hợp lý. Thời kỳ hồi phục sức khỏe, cần cho trẻ hoạt động thích đáng, nên đi bộ, nhưng thời gian không nên quá dài. Khi trẻ em xuất hiện hoàng đản, ngứa ở da, bố mẹ cần giữ cho da trẻ sạch sẽ, không nên mặc quần áo lót bằng sợi hóa học hoặc sợi nhung, len. Cắt ngắn móng tay móng chân cho trẻ, khi ngủ cho đeo găng tay để không gãi gây rách da… Cho trẻ ăn uống sao cho đủ chất dinh dưỡng, tuy nhiên cần hạn chế chất đường và chất béo. Tăng cường bổ sung vitamin và chất xơ từ rau củ quả tươi. Uống nhiều nước: Bố mẹ nên động viên con uống nhiều nước, mỗi ngày nên uống từ 1500ml trở lên, uống nhiều nước thì lượng nước tiểu sẽ tăng nhiều và có lợi cho bài tiết chất độc.
Comments
Xử Lý Viêm Gan B Ở Trẻ Em
Điều trị hoặc là không có ích hoặc không được chỉ định trong giai đoạn này, và việc sử dụng bừa bãi đồng phân nucleotide/nucleoside có thể làm xuất hiện kháng thuốc, với sự phân nhánh âm tính nghiêm trọng trong điều trị về sau.
– Một số đứa trẻ với nhiễm HBV mạn có thể là đối tượng điều trị. Nhóm này bao gồm những đứa đang ở trong giai đoạn ban đầu của hoạt hóa miễn dịch, với ALT bất thường dai dẳng và viêm gan mạn tính trên mô học.
– Các lựa chọn điều trị bệnh viêm gan B mạn trong giai đoạn ấu thơ còn hạn chế.
Không có dữ liệu về việc điều trị nhiễm HBV cấp ở trẻ em. Phần lớn trẻ nhiễm trong giai đoạn chu sinh đều không có triệu chứng, một tỷ lệ nhỏ trong nhóm nhiễm viêm gan cấp, thậm chí hoại tử, nhanh chóng xóa bỏ HBsAg và virus máu. Hiển nhiên rằng một số trẻ với HBV mạn cần điều trị dự phòng biến chứng như xơ gan và ung thư gan ở độ tuổi trưởng thành sớm. Xử trí trẻ với HBV mạn bao gồm giáo dục và tư vấn, giám sát ung thư gan, và liệu pháp kháng virus trong một số trường hợp.
Có ít các thử nghiệm lớn ở trẻ em về việc đưa ra quyết định điều trị. Điều trị thường được xem xét ở giai đoạn miễn dịch hoạt động, thường được định nghĩa là ALT gấp 2 lần bình thường và HBV DNA trên 20000UI/mL ít nhất 6 tháng. Hầu như tất cả trẻ nhiễm HBV mạn đều HBeAg dương tính, nhưng liệu pháp cũng có thể được xem xét ở những trẻ có HBeAg âm tính, với điều kiện là virus máu trên 104 IU/mL đã được ghi nhận và bệnh lý khác đã được loại trừ. Không có điều trị hiện hành nào là có tác dụng cao. Do đó, điều trị hay không phụ thuộc các đặc điểm đặc hiệu của bệnh nhân dự báo tính hiệu quả của điều trị, bao gồm ALT bất thường dai dẳng và bệnh lý hoạt động trên sinh thiết, cũng như xem ét dựa trên khả năng thành đạt được các mục tiêu trị liệu thích hợp.
Khả năng đáp ứng với bất kỳ các thuốc hiện hành phụ thuộc rất nhiều vào độ tăng men gan. ALT thấp hơn 1.5 đến 2 lần cận trên giới hạn bình thường thường chỉ rằng bệnh nhân đang trong giai đoạn dung nạp miễn dịch của nhiễm HBV. Những đứa trẻ như vậy thường không phải ứng viên cho điều trị, bởi vì điều trị với bất kỳ loại thuốc nào đang hiện hành cũng không đưa đến tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh cao khi so với không điều trị. Điều trị kéo dài với các đồng phân nucleoside và nucleotide ở giai đoạn này đi kèm với ít ích lợi, nhưng tăng nguy cơ kháng virus, đối với thuốc lựa chọn và các thuốc tương đồng. Một ngoại lệ có thể ở những trẻ dung nạp miễn dịch mà sẽ trải qua ức chế miễn dịch, như là những đứa sẽ được hóa trị liệu hoặc cấy ghép tế bào gốc, cơ quan đặc, cũng như ở người lớn ức chế HBV nên được xem xét ở những thời điểm quan trọng này để tránh viêm gan hoạt động. Trẻ em với ALT lớn hơn 10 lần giới hạn trên có thể trong giai đoạn chuyển đổi huyết thanh HBeAg tức thì, và nên được theo dõi vài tháng trước khi bắt đầu điều trị. Có thể có một số các lựa chọn khác về quyết định điều trị cho riêng từng bệnh nhân, ví dụ đồng nhiễm viêm gan C, D hoặc virus HIV, hoặc các bệnh lý phối hợp khác.
Một vài loại thuốc đang được chấp nhận cho điều trị nhiễm HBV mạn ở người lớn. Tuy nhiên, ở Mỹ, chỉ có lamivuidne và INF alpha được cấp phép sử dụng ở trẻ em, và adefovir dipivoxil được cho sử dụng cho những trẻ trên 12 tuổi. INF alpha dẫn đến đáp ứng có lợi ở 30-40% số bệnh nhân. Tuy nhiên, giá cả đắt và đôi khi thường đi kèm với tác dụng phụ gây khó chịu. tỷ lệ điều trị thành công INF alpha ở trẻ nhỏ thay đổi nhiều phụ thuộc vào từng vùng khác nhau trên thế giới. Tỷ lệ đáp ứng cao nhất ở các nước phương Tây, trong khi điều trị với INF alpha làm biến mất HBV DNA hay chuyển đổi huyết thanh HBeAg trong số 20-58% so với 8-17% trong nhóm không điều trị. Ngược lại, chỉ có 3-17% trẻ em điều trị với INF alpha ở các nước Châu Á loại bỏ HBV DNA hay chuyển đổi huyết thanh từ HBeAg sang anti-HBe. Tuy nhiên, nếu men gan tăng, có thể không có khác biệt trong tỷ lệ đáp ứng giữa trẻ sinh ra ở Châu Á (22%) và ở Châu Âu và Mỹ (26%). Trẻ em đáp ứng với INF alpha, không phân biệt chủng tộc, thường là độ tuổi nhỏ với men gan tăng và nồng độ HBV DNA thấp. Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng lớn, đa quốc gia về INF alpha đã được thực hiện ở 144 đứa trẻ với HBeAg dương tính mạn tính và ALT tăng gấp đôi cận trên bình thường. HBeAg và HBV DNA huyết thanh trở nên âm tính ở 26% những đứa trẻ được điều trị, so với 11% ở nhóm không điều trị. Thêm nữa, 10% những đứa được điều trị có loại bỏ HBsAg so với 1% trong nhóm chứng. INF không phải là một lựa chọn tốt ở trẻ nhỏ với bệnh lý tự miễn có sẵn, ghép tạng hay bệnh lý tâm thần kinh nghiêm trọng. Một thuận lợi của INF là nó có thời gian điều trị xác định và không đi kèm với xuất hiện đột biến kháng HBV. Đối với trẻ nhỏ nhiễm HBV mạn có HBeAg dương tính, INF alpha được dùng với liều 6 MU/m2 (tối đa 10 MU) 3 lần/tuần trong vòng 24 tuần, tiếp đó được theo dõi trong 6-12 tháng. Một năm điều trị có thể được ưu tiên hơn trong nhóm nhiễm HBV mạn có HBeAg âm tính, dựa theo dữ liệu của người trưởng thành. Bệnh nhân nên được theo dõi đều đặn về cơn tái phát viêm gan trong những tháng đầu tiên sau điều trị. Tác dụng của pegINF alpha ở trẻ nhỏ với nhiễm HBV mạn chưa được điều tra. Tuy nhiên, dựa trển tác dụng có được ở người trưởng thành và kinh nghiệm từ trẻ có HCV, nó có thể là lựa chọn có lý cho trẻ em với HBV, sử dụng trong 48 tuần và liều như HCV, như được khuyến cáo ở người lớn.
Lamivudine là đồng phân nucleoside đường uống duy nhất được chứng nhận ở Mỹ trong điều trị cho trẻ em dưới 12 tuổi có HBV mạn. Năm 2002, một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đa trung tâm, mù đôi được tiến hành ở những đứa trẻ có HBeAg dương tính với ALT hơn 1.3 lần cận trên bình thường đã chỉ ra sự xóa bỏ HBeAg và HBV DNA vào tuần 52 trong số 23% số trẻ em được điều trị so với 13% nhóm chứng. ở trẻ nhỏ có ALT nền ít nhất là gấp đôi bình thường, tỷ lệ đáp ứng này tăng đến 35%. Tiếp đó, lamivudine cho biết trước được cho sử dụng ở các bệnh nhân không đáp ứng điều trị đã chỉ ra tỷ lệ đáp ứng virus tích lũy sau 3 năm là 35%. HBsAg biến mất xuất hiện trong 3% bệnh nhân. Chuyển đổi huyết thanh HBeAg trong năm đầu tiên là bền vững trong 88% số bệnh nhân vào năm thứ 3. Tuy nhiên, kháng virus xuất hiện ở 64% số bệnh nhân đã điều trị lamivudine trong 3 năm. Ở những đứa trẻ tham gia vào thử nghiệm này, 151 đứa được tiếp tục theo dõi trong 2 năm nữa. Các đối tượng được chia ra làm 2 nhóm để phân tích: những đứa đã đạt được đáp ứng virus vào cuối năm điều trị thứ 3, và những đứa không có đáp ứng. Ở nhóm có đáp ứng virus thành công, tính bền vững lâu dài của chuyển đổi huyết thanh HBeAg là 82% và lớn hơn 90% ở những đứa trẻ được nhận lamivudine theo tuần tự trong 52 tuần và ít nhất 2 năm. Kết quả này so sánh với 75% những đứa đạt được chuyển đổi huyết thanh sau điều trị giả dược. Trong nhóm không có đáp ứng chuyển đổi virus, có thêm 11% đã đạt được trong vòng 2 năm tiếp sau; những đứa này đều được nhận lamivudine trong thử nghiệm trước và không ai được điều trị thêm gì.Thêm 8 đứa trẻ có HBsAg biến mất, tất cả đều được nhận lamivudine vào 1 thời điểm trong các thử nghiệm trước. Mặc dù những phát hiện này là phù hợp với 1 nghiên cứu gần đây ở trẻ em Hàn Quốc- nơi mà điều trị lamivudine lâu dài dẫn đến tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh từ HBeAg sang HBsAg cải thiên đáng kể, kết quả của một vài nghiên cứu nhỏ khác ở trẻ em sử dụng lamivudine lâu dài đã cho báo cáo tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh HBeAg thấp và không có sự xóa bỏ HBsAg.
Lamivudine an toàn và dung nạp tốt cho trẻ viêm gan B. không có tác dụng phụ nghiêm trọng được báo cáo sau 3 năm điều trị liên tiếp. khi so sánh với điều trị INF alpha, giảm tốc đọ tăng trưởng chiều cao và giảm cân không được ghi nhận. trẻ em với nồng độ ALT và chỉ số hoạt động mô học cao trước điều trị có vể đáp ứng nhiều hơn với lamivudine. Các yếu tố khác như: mức HBV DNA, tuổi, giới, chủng tộc, cân nặng và chỉ số khối cơ thể không có tác dụng rõ rệt ảnh hưởng đến đáp ứng điều trị với lamivudine ở trẻ nhỏ. Các dữ liệu ban đầu gợi ý rằng tiếp tục điều trị ở bệnh nhân có xuất hiện đề kháng có thể có ích ở những người mà HBV DNA tiếp tục bị ức chế. Tuy nhiên, theo dõi về lâu dài ở những bện nhân này cho thấy bệnh vẫn tiếp tục diễn tiến. do đó, cần phải thận trọng trong việc ngưng lamivudine ở trẻ có xuất hiện HBV đề kháng với lamivudine. Bệnh nhân nên được theo dõi thường xuyên khả năng bùng phát viêm gan trong một vài tháng sau khi ngưng điều trị. Ở những người cần điều trị bổ sung, các lựa chọn điều trị vẫn còn hạn chế cho đến thời điểm này.
Trẻ nhỏ với HBV mạn ở giai đoạn dung nạp miễn dịch (ALT bình thường, HBeAg dương tính) cần được theo dõi kỹ lưỡng đề phòng hoạt hóa. ALT nên được xác định 2 lần mỗi năm, và HBeAg và anti – Hbe hàng năm. Bệnh nhân nhiễm HBV ở pha không hoạt động (HBeAg âm tính, anti-HBe dương tính, ALT bình thường kéo dài, HBV DNA < 104/mL) nên được theo dõi ALT mỗi 6-12 tháng. Nhiễm trùng này có thể được tái hoạt ngay cả khi sau nhiều năm yên lặng; 4-20% người mang trùng bất hoạt có HBeAg trở lại 1 hay nhiều lần, và khoảng 20-25% sẽ chuyển tiếp thành HBV mạn HBeAg âm tính. Đo nồng độ AFP huyết thanh và siêu âm gan có chu kỳ để giám sát ung thư gan đã được khuyến cáo ở người lớn dựa trên dữ liệu quan sát và ý kiến chuyên gia, ngay cả sau khi chuyển đổi huyết thanh HBeAg, tự phát hoặc sau điều trị. Nguy cơ ung thư gan tăng với tuổi, nhưng các ca ở trẻ nhỏ cũng đã được ghi nhận. Hiện nay, không có phác đồ nào chỉ rõ khi nào thì nên bắt đầu giám sát, và giám sát thường xuyên đến mức nào.
Trẻ nhỏ với nhiễm HBV nên được cho phép tham gia tất cả các hoạt động thường quy của tuổi ấu thơ. Không cần phải loại trừ những đứa trẻ nhiễm bệnh khỏi hoạt động trường học và thể thao. Trẻ nhỏ HBV dương tính nên được nhận vaccine viêm gan A. Tiếp xúc trong gia đình nen được tiêm chủng HBV và kiểm tra để đảm bảo hiệu lực vaccine. Những đối tượng này nên được tư vấn không chia sẻ các vật dụng có thể nhiễm máu và nên vứt bỏ cẩn thận các vật dụng này. Thiếu niên nên được thông tin về nguy cơ lây nhiễm HBV qua đường tình dục và sử dụng chung kim tiêm.
Điều trị tối ưu cho trẻ nhiễm HBV mạn nên được cá nhân hóa, tùy thuộc tình trạng lâm sàng và mô học, bệnh lý đồng nhiễm, khả năng dùng thuốc, chống chỉ định và mối quan tâm của gia đình. Mục tiêu điều trị nên có là ức chế HBV DNA và đạt được chuyển đổi huyết thanh HBeAg bền vững, là chỉ điểm cho việc ngưng giai đoạn hoạt động của virus, để phòng ngừa các biến chứng về lâu dài. Lựa chọn bệnh nhân hợp lý và hiểu rõ thế mạnh cũng như hạn chế của mỗi lựa chọn điều trị là chìa khóa để điều trị thành công.
Hình 1: Lựa chọn điều trị ở bệnh nhi viêm gan B mạn tính
Theo Drthuthuy.com
Những Điều Cần Biết Về Bệnh Viêm Gan B Ở Trẻ Em
Bệnh viêm gan B ở các trẻ nhỏ tuổi là một trong những điều đáng sợ nhất của những bậc làm cha, mẹ. Đặc biệt, bệnh viêm gan B này có thể mắc ở mọi lứa tuổi do bệnh phát sinh từ các chủng virus viêm gan B và có thể lây truyền qua đường máu..
Nguyên nhân mắc bệnh viêm gan B ở trẻ em
Thông thường do đặc tính của chủng virus này là truyền qua đường máu và chúng ta cần trang bị những điều cần biết viêm gan B ở trẻ em. Do đó, chỉ có một nguyên nhân thường thấy nhất đó là từ mẹ sang con. Cơ bản thì thường những trường hợp này, do cơ thể người mẹ khoẻ mạnh, nhưng bênh trong lại có virus viêm gan B yếu và chính bản thân người mẹ không biết mình mắc bệnh hay có chứa loại virus này.
Và khi đó, việc mang thải và sinh con đã vô tình truyền loại virus này sang cho đứa bé. Tỷ lệ tử vong của trẻ nhỏ do mắc căn bệnh này rất cao. Khi bị truyền từ mẹ sang con thì các loại vacxin hầu như không có tác dụng.
Giai đoạn trẻ nhỏ bị thường là thời kỳ sơ sinh và thời kỳ này chiếm 90% ca nhiễm do lúc này đứa trẻ còn phụ thuộc vào chất dinh dưỡng từ mẹ,… và lúc này cũng là lúc kháng thể trong người đứa bé rất kém nên không thể nào tiêu diệt và loại trừ các loại mầm bệnh, virus viêm gan B ra khỏi cơ thể được.
Đa số các trường hợp viêm gan B dạng thông thường thì trẻ nhỏ không có bất cứ biểu hiện và triệu chứng của viêm gan B giai đoạn đầu và mãn tính gì của mắc bệnh nếu sức khoẻ ổn . Vẫn sinh hoạt, phát triển và học tập bình thường. Thế nhưng khi sức khoẻ giảm sút, nhiễm trùng …. Thì đây là lúc căn bệnh bùng gây ra các đợt viêm gan cấp nguy hiểm.
Trong thời kỳ này, da đứa trẻ chưa bị vàng nhưng sẽ có khá nhiều triệu chứng như , chảy nước mũi, buồn nôn, chán ăn, phân có màu bạc, sưng to vùng gan khi ấn nhẹ cũng cảm thấy đau , nước tiểu bị sẫm màu. Khi trẻ nhỏ có những biểu hiện trên thì các bậc phụ huynh nên đưa trẻ đến các trung tâm y tế chuyên khoa để khám và chữa bệnh ngay khi có thể để tránh các biến chứng nguy hiểm đến cho bé.
Sau thời kỳ các biểu hiện bệnh cấp tính đó sẽ là biểu hiện đặc trưng nhất của bệnh gan là vàng da. Tuy nhiên có nhiều bà mẹ cho rằng đó là vàng da sinh lý không nguy hiểm và bỏ qua thực chất nó lại là dấu hiệu bệnh gan trở nặng.
Một lời khuyên của các chuyên gia dành cho những ông bố, bà mẹ là cần phải thường xuyên khám sức khoẻ cho trẻ nhỏ ở những giai đoạn phát triển để có thể nắm được tình hình sức khoẻ cũng như là phát hiện ra được những căn bệnh nguy hiểm tiềm ẩn để có thể nhanh chóng điều trị tránh những sự hối tiếc về sau này.
Giai đoạn 1: HBsAg và HbeAg được phát hiện
Men gan (ALT, AST) nằm trong giới hạn bình thường.
Không có dấu hiệu viêm gan và xơ gan hoặc có rất nhẹ.
Giai đoạn 2: HBsAg và HbeAg vẫn tồn tại
Men gan (ALT,AST) tăng liên tục.
Có thể tiến triển viêm gan và xơ gan.
Giai đoạn 3: HBsAg vẫn hiện diện
HBeAg biến mất, xuất hiện anti-Hbe.
HBV DNA < 10.000 copies/ml hoặc không phát hiện.
Men gan (ALT, AST) bình thường.
Không có dấu hiệu viêm gan, dấu hiệu xơ gan sẽ thoái lui.
Giai đoạn 4: HBsAg vẫn hiện diện
HBeAg vẫn còn âm tính và anti-Hbe vẫn dương tính.
Men gan (ALT, AST) bình thường hoặc tăng.
Viêm gan thể tấn công và có khả năng dẫn đến xơ gan.
Hiện nay theo Hepb VN, cách phòng tránh hữu hiệu nhất dành cho trẻ nhỏ đó chính là xet nghiệm tổng quát sau khi sinh và tiêm chủng đầy đủ các loại vacxin để tạo kháng thể nếu như bé chưa bệnh.
Nguồn : https://www.vinmec.com/vi/tin-tuc/thong-tin-suc-khoe/nhi/viem-gan-b-o-tre-em-nhung-dieu-can-biet/
Triệu Chứng Của Bệnh Viêm Gan B
Viêm gan b là một căn bệnh truyền nhiễm do vi rút gây ra, đây là căn bệnh được lên tiếng cảnh báo nguy hiểm đến tính mạng mọi người cần phải hiểu biết. Thông thường, những người bị viêm gan b thường biết bệnh khi đã vào giai đoạn nặng vì thế việc cứu chữa rất mong manh. Để giúp mọi người có thể hiểu biết thêm về bệnh và điều trị kịp thời, chúng tôi xin chia sẻ một số thông tin qua viết triệu chứng của bệnh viêm gan b.
Bệnh viêm gan b?
Viêm gan B là một trong những loại bệnh viêm gan do gây ra bởi siêu vi khuẩn viêm gan B (hepatitis B hoặc viết tắt là HBV). Người bị nhiễm HBV trong sáu tháng đầu được xem là viêm gan B cấp tính (acute hepatitis B).
Trong giai đoạn này lá gan bị sưng. Trong một số trường hợp may mắn, bệnh không cần chữa cũng hết vì gan có khả năng chống lại siêu vi. Tuy nhiên, có đến 13% đến 16% những trường hợp nhiễm siêu vi gan B, lá gan vẫn bị sưng mãi; trường hợp nầy gọi là kinh niên hoặc mãn tính (chronic hepatitis B). Sau đó siêu vi HBV tiếp tục sanh sôi nẩy nở và tàn phá gan trong nhiều năm sắp tới.
Trên thế giới ước tính có khoảng 2 tỷ người nhiễm virus viêm gan B, gọi tắt là HBV. Trong số 250 triệu người nhiễm HBV mạn tính của châu Á – Thái Bình Dương thì Việt Nam chiếm tới 10 – 14%. Hiện Việt Nam thuộc nhóm các nước có tỷ lệ mắc viêm gan B cao của thế giới (từ 8 – 12%). Trong đó, 10 – 15% nhiễm virus viêm gan B có diễn biến thành viêm gan mạn tính, sau đó khoảng 25% thành xơ gan và 80% dẫn tới ung thư gan.
Bệnh nhân có cảm giác người rất mệt mỏi, không muốn ăn uống, không muốn đi lại. Triệu chứng này tồn tại ở đa số bệnh nhân với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, cũng có những bệnh nhân viêm gan virus B chỉ có triệu chứng mệt mỏi là duy nhất.
Bệnh nhân có thể có rối loạn tiêu hoá, thể hiện: khi ăn vào ậm ạch khó tiêu, đi ngoài phân lỏng, nát… Đặc biệt, với những trường hợp viêm gan B có ứ mật nặng thì phân bị bạc màu. Bệnh nhân có nước tiểu vàng. Có nhiều bệnh nhân bị viêm gan B không thể hiện những triệu chứng trên mà chỉ có hai triệu chứng là mệt mỏi và đi tiểu vàng.
Triệu chứng vàng da cũng là triệu chứng điển hình của viêm gan B. Tuy nhiên, có rất nhiều bệnh nhân bị viêm gan B mà không hề bị vàng da. Lúc này, cần để ý tới các triệu chứng khác để nghĩ đến khả năng bị viêm gan B. Khi có những triệu chứng trên, bệnh nhân cần đi khám và làm ngay các xét nghiệm. Nếu kết quả HBsAg (+) dương tính và men gan tăng thì khả năng chắc chắn là bị viêm gan do virus viêm gan B.
Với bệnh viêm gan siêu vi B, phát hiện càng sớm điều trị sẽ càng nhanh và hiệu quả càng cao cao. Nếu bệnh ủ lâu thì việc điều trị sẽ khó khăn hơn và cũng có thể phát sinh nhiều biến chứng. Do đó, khi nhận thấy mình bị những triệu chứng như trên, bạn nên nhanh chóng đến gặp bác sĩ để được làm các xét nghiệm kiểm tra để chẩn đoán đúng tình trạng bệnh và được tư vấn biện pháp điều trị phù hợp nhất.
Virus gây viêm gan: thường gặp và nguy hiểm nhất là viêm gan do virus B, đây là một “căn bệnh thầm lặng” vì đa số những người bị nhiễm viêm gan B không biết là mình bị nhiễm và có thể vô tình lây lan qua nhiều đường khác nhau. Khi nhiễm viêm gan B mạn tính (virus viêm gan B tồn tại trong gan trên 6 tháng) thì có nguy cơ tiến triển thành các loại bệnh gan nặng hơn như xơ gan hay ung thư gan. Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B mạn tính cao, chiếm trên 20% dân số theo WHO.
Rượu bia: Gan bị ảnh hưởng lớn trước tác hại của rượu bia vì 90% lượng rượu bia vào cơ thể được chuyển hóa ở gan. Rượu có thể gây ra 3 loại bệnh về gan: gan nhiễm mỡ, viêm gan do rượu, xơ gan. Các bệnh này xảy ra theo chuỗi nối tiếp nhau với bệnh đầu tiên là gan nhiễm mỡ. Nếu dừng uống rượu, bệnh có thể dừng ở giai đoạn này. Tiếp tục uống rượu sẽ dẫn đến viêm gan, xơ gan và về lâu dài, ung thư gan sẽ phát triển từ nền các tế bào gan bị xơ hóa. “Khoảng 71,7% nam giới Việt Nam bị xơ gan do uống nhiều rượu bia” theo WHO.
Môi trường bị ô nhiễm: Có nhiều chất hóa học từ môi trường ô nhiễm đọng trong gan. Gan có một nhiệm vụ quan trọng là giải độc và thải trừ chất độc. Sống ở môi trường bị ô nhiễm bởi khí thải, chất thải độc hại; làm việc thường phải tiếp xúc với hóa chất, khói thuốc lá…, gan của bạn phải “gồng mình” phân giải các chất này. Dưới tác động lâu dài của các yếu tố ô nhiễm, gan phải hoạt động liên tục dẫn đến quá tải, tế bào gan bị tổn thương, chức năng giải độc bị suy giảm. Đây chính là cơ hội để các bệnh về gan như viêm gan, xơ gan…phát triển.
Sử dụng thực phẩm không an toàn: Gan có vai trò chuyển hóa các chất dinh dưỡng để cơ thể hấp thu. Sử dụng thực phẩm bị ô nhiễm, nguồn gốc không rõ ràng, chứa nhiều hóa chất độc hại, thức ăn đường phố không đảm bảo vệ sinh… là nguyên nhân “thầm lặng” làm chức năng gan bị suy giảm. Một khi gan bị tổn thương thì dễ dẫn đến men gan cao, viêm gan, xơ gan là những bệnh khó tránh khỏi.
Hạn chế rượu bia, thuốc lá: là một phương pháp hiệu quả để bảo vệ gan khỏe mạnh. Nếu sử dụng rượu bia hay trong hoàn cảnh phải sử dụng rượu bia thì bạn nên dùng với lượng vừa phải theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO – 25ml mỗi ngày với rượu 40 độ. Bạn cũng không nên uống rượu khi mắc các bệnh về gan và hạn chế, hoặc tốt nhất là không hút thuốc lá.
Tăng cường vận động: tập luyện thể dục thể thao thường xuyên và điều độ là một trong những phương pháp hiệu quả để bảo vệ gan. Đây là một việc tương đối đơn giản, hiệu quả, ít tốn kém mà lại giữ cho cơ thể khỏe mạnh mỗi ngày.
Dinh dưỡng hợp lý: chọn thực phẩm đảm bảo vệ sinh và ăn uống đầy đủ, cân bằng các loại chất đạm, chất béo, vitamin, khoáng chất, ăn nhiều thực phẩm tươi, giàu chất xơ – rau xanh, trái cây…, tránh ăn nhiều đồ chiên, nướng và uống đủ nước (khoảng 2,5 lít mỗi ngày).
Sử dụng các loại thảo dược quý bảo vệ gan: là một cách hiệu quả để bảo vệ gan. Y học cổ truyền và hiện đại đã chứng minh các hoạt chất sinh học có trong các loại thảo dược quý như cà gai leo, diệp hạ châu, kế sữa, actisô, curcumin, nấm linh chi có tác dụng đặc hiệu trên gan, bảo vệ và phục hồi tế bào gan bị tổn thương, hỗ trợ điều trị gan nhiễm mỡ, xơ gan, viêm gan do virus, đặc biệt là viêm gan B.
Khám sức khỏe định kỳ: việc đi khám sức khỏe định kỳ (6 tháng một lần) là cần thiết để biết tình trạng của gan đồng thời được bác sĩ tư vấn tiêm phòng vacxin khi chưa bị viêm gan do virus hay điều trị kịp thời nếu mắc các bệnh về gan.
Cập nhật thông tin chi tiết về Triệu Chứng Bệnh Viêm Gan B Ở Trẻ Em trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!