Zona Bệnh Zona / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Bệnh Zona Có Lây Không? Bệnh Zona Thần Kinh Lây Qua Đường Nào?

Hoàng Nguyên (Hà Nội)

Xin chào bạn, những câu hỏi của bạn cũng là những thắc mắc được rất nhiều người quan tâm vì hiện tại đang là thời điểm bùng phát các bệnh như thủy đậu, zona thần kinh. Chúng tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau:

Bệnh zona có lây không?

Theo chuyên trang sức khỏe HealthLine (Mỹ, bệnh zona là bệnh do virut Varicella Zoster – một loại virut gây bệnh thủy đậu. Mặc dù đây là một bệnh không lây nhiễm, tuy nhiên, virut varicella zoster lại là một loại virut truyền nhiễm vì thế khi lây lan sang người khác sẽ khiến họ bị phát triển bệnh thủy đậu.

Cơ chế sinh bệnh là virut Varicella Zoster sẽ nằm trong mô thần kinh của người bị truyền nhiễm suốt một thời gian dài, chúng vẫn hoạt động cho đến khi hặp điều kiện thuận lợi như hệ thống miễn dịch của người này gặp vấn đề sẽ kích hoạt bệnh.

Bệnh zona thần kinh lây qua đường nào?

Người mắc bệnh zona thần kinh chỉ có thể truyền virut Varicella Zoster cho người chưa từng bị thủy đậu, vì người đã từng bị thường đã có kháng thể chống lại virút này.

Bệnh zona thần kinh gây ra những vết thương có bỏng nước vì thế virut Varicella Zoster có thể lây lan qua việc tiếp xúc da – da với những mun nước này.

Virút này không lây lan khi đã đóng vảy cứng hoặc các vết rộp đã được che phủ bằng vảy. Rất hiếm gặp trường hợp lây lan qua đường nước bọt hoặc hô hấp nhưng không có nghĩa là không có, vì thế người chưa bị bệnh thủy đậu vẫn nên cẩn thận.

Ai là người có nguy cơ bị bệnh zona cao nhất

Bất cứ ai từng bị thủy đậu đều có thể bị bệnh zona thần kinh vì virut Varicella Zoster vẫn tồn tại trong cơ thể người bệnh. Tuy nhiên, phổ biến nhất là người cao tuổi từ 60-70. Virut Varicella Zoster có xu hướng tái hoạt động khi cơ thể bạn yếu hơn bình thường.

Triệu chứng khi bị bệnh zona thần kinh

Các triệu chứng của bệnh zona thần kinh ban đầu gồm nhức đầu, sốt và ớn lạnh. Các biểu hiện ngoài da và đau nhức bắt đầu xuất hiện khi bệnh đã khởi phát.

– Biều hiện ngoài da: Các triệu chứng giống như bệnh thủy đậu với những nốt phỏng rộp, lan thành mảng. Khác với bệnh thủy đậu có thể xảy ra cùng lúc ở các bộ phận khác nhau, bệnh zona thưởng chỉ ảnh hưởng đến một vùng da trên cơ thể, phổ biên nhất là ở thân mình và mặt.

– Đau nhức: Bệnh zona đi học theo đường dẫn thần kinh gây đau, ngứa.

Bệnh zona thần kinh có nguy hiểm không?

Câu trả lời là có. Bởi lẽ căn bệnh này gây tổn thương dọc theo đường thần kinh nên gây đau đớn và cảm giác bỏng rát cho người bệnh. Loại cảm giác bỏng rát và ngứa ngáy như kiến bò, lửa đốt,…mà bác sĩ thường hay gọi là dị cảm.

Như đã nói ở trên, các triệu chứng thường kéo dài và khỏi sau 2-3 tuần, tuy nhiên những ảnh hưởng của bệnh tới sức khỏe của bệnh nhân không dừng lại ở đó. Cảm giác đau rát vẫn sẽ đeo bám bệnh nhân trong nhiều tuần, thậm chí là nhiều tháng sau khi đã khỏi bệnh.

Ngoài ra, nếu không may bị zona thần kinh ở khu vực quanh mắt hoặc trán và dẫn đến nhiễm trùng có thể gây mất thị lực tạm thời hoặc vĩnh viễn. Còn khi chúng tân công lên tai bệnh nhân có thể làm suy giảm thính lực. Đặc biệt, zona ở những người già trên 70 tuổi, hiện tượng đau dai dẳng sẽ kéo dài hơn ở những người trẻ và khả năng phục hồi sẽ lâu hơn.

Làm thế nào để tránh lây lan bệnh zona

Bệnh zona thần kinh thường ít có khả năng lây truyền virut Varicella Zoster hơn bệnh thủy đậu, tuy nhiên vẫn không thể chủ quan vì người thân của bạn có thể mắc bệnh, đặc biệt là ở trẻ em. Nếu bị zona thần kinh bạn vẫn có thể hoạt động, làm việc bình thường nhưng cần làm theo những lời khuyên sau:

– Giữa vùng da bị zona sạch sẽ.

– Rửa tay thường xuyên.

– Tránh xa phụ nữ mang thai vì virút Varicella Zoster có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của phụ nữ mang thai và em bé. Rủi ro lớn nhất khi trẻ bị viêm phổi, dị tật bẩm sinh.

– Một số đối tượng khác cũng nên tránh để họ bị bệnh như trẻ sơ sinh, trẻ chưa bị thủy đậu, người có hệ miễn dịch yếu (người nhiễm HIV, người cấy ghép tạng, người dùng thuốc ức chế miễn dịch, hóa trị liệu).

– Tiêm phòng bằng vắc-xin là cách giảm nguy cơ bị lây nhiễm zona tốt nhất.

Bệnh Thủy Đậu Và Bệnh Zona

BỆNH THỦY ĐẬU VÀ BỆNH ZONA

Thủy đậu (trái rạ) là bệnh nhiễm siêu vi thường gặp có thể tái phát về sau này dưới hình thức bệnh giời leo (bệnh Zona) khi người ta đã lớn tuổi. Tất cả trẻ sơ sinh và người lớn chưa miễn dịch nên được chủng ngừa.

* Bệnh thủy đậu (trái rạ) là bệnh siêu vi do siêu vi khuẩn ‘herpes zoster’ (còn được gọi là siêu vi khuẩn ‘Varicella-Zoster’) gây ra.

* Trẻ em mắc bệnh này thông thường chỉ bị bệnh tương đối nhẹ.

* Người lớn và người có hệ miễn dịch kém, khi bị bệnh thủy đậu (trái rạ) có thể bị bệnh trầm trọng.

* Bị bệnh thủy đậu trong thời gian mang thai có thể làm cho thai nhi bị dị dạng, da bị sẹo và những vấn đề khác cho em bé.

* Ngày nay tỉ lệ mắc bệnh thủy đậu (trái rạ) ngày càng giảm dần khi có nhiều người được chủng ngừa hơn.

* Triệu chứng khởi đầu của bệnh thủy đậu (trái rạ) là đột nhiên bị sốt nhẹ, sổ mũi, cảm thấy người không khỏe và da nổi mẩn đỏ.

* Thông thường mẩn đỏ bắt đầu bằng những chùm nhỏ rồi biến thành những mụn nước và đóng vảy.

* Mẩn đỏ xuất hiện trong ba đến bốn ngày. Ở bất cứ thời điểm nào, các vết lở của mẩn đỏ thay đổi theo các giai đoạn phát triển khác nhau.

* Thông thường các triệu chứng bệnh sẽ xuất hiện trong hai tuần lễ sau khi người ta tiếp xúc với siêu vi khuẩn gây bệnh.

* Đa số người bệnh đều bình phục mà không bị biến chứng, nhưng đôi khi bệnh thủy đậu có thể dẫn tới những biến chứng trầm trọng hơn, chẳng hạn như bị viêm phổi và viêm não. Trong trường hợp hãn hữu, bệnh có thể gây tử vong.

* Trong thời kỳ đầu của bệnh thủy đậu, siêu vi khuẩn gây bệnh lây lan khi người bệnh ho.

* Trong giai đoạn sau đó, siêu vi khuẩn gây bệnh lây lan khi tiếp xúc trực tiếp với chất dịch của các mụn nước.

* Bệnh rất hay lây đối với người chưa bao giờ bị bệnh thủy đậu (trái rạ) hoặc chưa bao giờ được chủng ngừa.

* Người bệnh sẽ lây lan cho người khác trong từ một hay hai ngày trước khi nổi mẩn đỏ (tức là trong giai đoạn bị sổ mũi) và có thể đến năm ngày sau đó (khi các mụn nước đã đóng vảy cứng).

* Khi bị bệnh thủy đậu (trái rạ), cơ thể sẽ tạo ra sức đề kháng miễn dịch và người ta hiếm khi bị bệnh thủy đậu (trái rạ) hai lần.

* Bất cứ ai chưa bị bệnh thủy đậu (trái rạ) hoặc được chủng ngừa trong quá khứ đều có thể bị bệnh này.

* Người đã bị bệnh thủy đậu (trái rạ) thường được miễn nhiễm đối với siêu vi khuẩn gây bệnh này. Thậm chí người lớn trước đây chưa từng bị bệnh thủy đậu (trái rạ) cũng có thể được miễn nhiễm với bệnh này (vì trong quá khứ đã bị nhiễm bệnh nhưng nhẹ). Đôi khi, bác sĩ cũng cho bệnh nhân thử máu để xem những người này có cần được chủng ngừa hay không.

* Ngày nay tất cả trẻ em 18 tháng tuổi và trẻ em học năm đầu bậc trung học chưa được chủng ngừa và chưa bị bệnh thủy đậu (trái rạ) đều nên được chủng ngừa bệnh này.

* Thanh thiếu niên từ 14 tuổi trở lên, chưa miễn dịch với bệnh này cũng nên được chủng ngừa. Việc chủng ngừa gồm 2 liều, cách nhau 1 đến 2 tháng. Người dễ có nguy cơ bị bệnh thủy đậu (trái rạ), ví dụ như nhân viên y tế, người đang sống hay làm việc với trẻ nhỏ, phụ nữ định có thai và người có hệ miễn dịch ức chế ở chung và tiếp xúc với người bệnh nên được chủng ngừa bệnh này.

* Người bị bệnh thủy đậu (trái rạ) nên tránh xa người khác (và không đi nhà trẻ hay đi học) trong khoảng ít nhất năm ngày sau khi nổi mẩn đỏ và toàn bộ các mụn nước đã khô.

* Người bị bệnh thủy đậu (trái rạ) nên che mũi và miệng khi ho hay hắt hơi, vất bỏ giấy lau dơ, rửa tay kỹ và không sử dụng chung đồ dùng để ăn, thức ăn hoặc đồ dùng để uống.

* Thai phụ nên tránh xa bất cứ ai bị bệnh thủy đậu (trái rạ) hoặc bệnh giời leo (bệnh Zona) và nên đi khám bác sĩ nếu đã ở gần người bị những bệnh này.

* Trẻ em có hệ miễn dịch suy yếu (ví dụ như bị bệnh bạch cầu) hoặc người đang được hóa trị nên tránh xa bất cứ ai bị bệnh thủy đậu (trái rạ) hoặc bệnh giời leo bởi lẽ những người này có thể bị bệnh rất nặng.

Đa số trường hợp bệnh có thể được chẩn đoán theo những triệu chứng bệnh và sự xuất hiện của mẩn đỏ. Đôi khi việc chẩn bệnh được xác nhận bằng những mẫu xét nghiệm các mẩn đỏ hay máu.

* Bệnh giời leo là bệnh do siêu vi khuẩn bệnh thủy đậu (trái rạ) tái hoạt động gây ra, thường xảy ra trong tuổi tráng niên và nhiều năm sau lần bị bệnh thủy đậu (trái rạ) ban đầu.

* Đặc tính của bệnh này là nổi mẩn giống như bệnh thủy đậu (trái rạ) đau rát trên một khoảnh da, thường là ở một nửa bên người.

* Tình trạng bị đau rát và ngứa ran đi đôi với mẩn đỏ có thể kéo dài trong nhiều tuần lễ hay nhiều tháng sau khi mẩn đỏ đã biến mất. Trường hợp này gọi là chứng đau dây thần kinh sau khi bị nhiễm siêu vi khuẩn ‘herpes’ (post-herpetic neuralgia).

* Siêu vi khuẩn có thể lây lan qua việc tiếp xúc trực tiếp với mẩn đỏ của người bệnh và khiến cho người chưa được miễn dịch bị bệnh thủy đậu (trái rạ).

* Bệnh giời leo thường dễ xảy ra với người có hệ miễn dịch kém.

Bệnh giời leo có thể được chữa trị bằng thuốc kháng siêu vi đặc biệt như ‘acyclovir’ chẳng hạn. Bác sĩ chuyên khoa có thể hướng dẫn bạn cách giảm thiểu tình trạng khó chịu đi kèm với những triệu chứng của bệnh này. Thông thường, bệnh thủy đậu (trái rạ) tự hết mà không cần phải điều trị chi cả.

Bệnh Zona (Herpes Zoster) Và Điều Trị

Bệnh zona hay herpes zoster là bệnh nhiễm trùng da với biểu hiện là các ban đỏ, mụn nước, bọng nước tập trung thành đám, thành chùm dọc theo đường phân bố của thần kinh ngoại biên. Bệnh do sự tái hoạt của virút Varicella zoster (VZV) tiềm ẩn ở rễ thần kinh cảm giác cạnh cột sống.

Bệnh hay gặp ở những người già, những người suy giảm miễn dịch, đặc biệt ở người nhiễm HIV/AIDS.

CĂN NGUYÊN, BỆNH SINH

Căn nguyên

Căn nguyên là một virút hướng da và thần kinh có tên là Varicella zoster virus (VZV), thuộc họ virút herpes, và cũng chính là virút gây bệnh thủy đậu.

Bệnh sinh

Ở người đã mắc bệnh thủy đậu, sau khi khỏi, một số ít virút tồn tại trong các hạch thần kinh cảm giác cạnh cột sống dưới dạng tiềm tàng, im lặng. Khi gặp điều kiện thuận lợi (các yếu tố khởi động) như suy giảm miễn dịch (suy giảm về thần kinh và thể lực, người già yếu, dùng thuốc ức chế miễn dịch, các bệnh về máu, đái tháo đường), bệnh tạo keo (đặc biệt là bệnh lupus ban đỏ), stress, điều trị tia xạ, ung thư, HIV/AIDS…, virút sẽ tái hoạt, nhân lên và lan truyền gây viêm lan toả và hoại tử thần kinh. Đồng thời virút lan truyền ngược chiều đến da, niêm mạc và gây tổn thương.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định: chủ yếu dựa vào lâm sàng.

Zona mắt: chiếm 10-15% các thể z Do tổn thương thần kinh V hay thần kinh sinh ba chi phối cho mắt, hàm trên và hàm dưới, trong đó tổn thương nhánh mắt gấp 5 lần các nhánh khác. Có thể có các biến chứng về mắt như viêm kết mạc, giác mạc, củng mạc, thậm chí nặng đe doạ thị lực như hoại tử võng mạc cấp tính, viêm dây thần kinh thị giác, hội chứng đỉnh ổ mắt, viêm hậu củng mạc, glaucome thứ phát…

+ Các thể zona đặc biệt

Zona tái phát.

Zona nhiều dây thần kinh.

Zona lan toả (disseminated zoster).

+ Theo hình thái tổn thương: những hình thái này thường gặp ở những người suy giảm miễn dịch như HIV/AIDS, ung thư, hoá trị liệu…, bao gồm:

Zona hông, bụng, sinh dục, bẹn, xương cùng, ụ ngồi, đùi.

Zona gáy cổ: có tổn thương ở gáy, da đầu, vành

Zona cổ (đám rối cổ nông) và cổ cánh tay.

Zona liên sườn và ngực bụng: là thể lâm sàng hay gặp nhất, chiếm 50% trường hợp.

Các thể lâm sàng

Các rối loạn khác: có thể thấy rối loạn bài tiết mồ hôi, vận mạch, phản xạ dựng lông (nhưng hiếm gặp).

Triệu chứng đau thường phụ thuộc vào lứa tuổi. Ở trẻ em, người trẻ đau ít. Người nhiều tuổi đau thành từng cơn, kéo dài, thậm chí hàng năm khi tổn thương ngoài da đã lành sẹo, còn gọi là đau sau zona.

Triệu chứng cơ năng: đau xuất hiện sớm, có thể trước cả tổn thương ngoài da và luôn thay đổi trong suốt thời gian bệnh tiến triển. Mức độ đau rất đa dạng từ nhẹ như cảm giác rát bỏng, âm ỉ tại chỗ hay nặng như kim châm, giật từng cơn.

Hạch bạch huyết vùng lân cận sưng to.

Vị trí: thường chỉ ở một bên, không vượt quá đường giữa cơ thể và theo đường phân bố của một dây thần kinh ngoại biên; cá biệt bị cả hai bên hay lan toả.

Triệu chứng da: vài ngày sau, trên những mảng đỏ da xuất hiện mụn nước, bọng nước tập trung thành đám giống như chùm nho, lúc đầu mụn nước căng, dịch trong, sau đục, hóa mủ, dần dần vỡ đóng vảy tiết. Thời gian trung bình từ khi phát tổn thương đến khi lành sẹo khoảng 2-4 tuần. Người cao tuổi tổn thương nhiều, diện rộng; mụn nước, bọng nước có thể xuất huyết, hoại tử da, nhiễm khuẩn, sẹo xấu và kéo dài. Ở trẻ em tổn thương ít, tiến triển nhanh.

+ Toàn phát

+ Khởi phát: khoảng nửa ngày đến một ngày sau, trên vùng da có dấu hiệu tiền triệu xuất hiện những mảng đỏ, hơi nề nhẹ, đường kính khoảng vài cm, gờ cao hơn mặt da, sắp xếp dọc theo đường phân bố thần kinh và dần dần nối với nhau thành dải, thành vệt.

+ Tiền triệu: bệnh khởi đầu với các cảm giác bất thường trên một vùng da như bỏng, nóng rát, châm chích, tê, đau, nhất là về đêm, hiếm gặp hơn là dị cảm ở một vùng hoặc nhiều dây thần kinh chi phối từ 1-5 ngày. Kèm theo có thể nhức đầu, sợ ánh sáng và khó chịu. Thời kỳ này được cho là thời kỳ virút lan truyền dọc dây thần kinh.

– Lâm sàng

Zona hạch gối hay hội chứng Ramsay Hunt: do thương tổn hạch gối của dây thần kinh Bệnh nhân liệt mặt một bên, ù tai, nghe kém hoặc mất khả năng nghe, buồn nôn, nôn, chóng mặt và giật nhãn cầu. Mắt không nhắm kín được (hở mi), có dấu hiệu Charler Bell. Mất cảm giác vị giác một bên 2/3 trước lưỡi, mụn nước mọc ở màng nhĩ, ống tai, vành tai. Có thể có viêm não, màng não.

Zona vùng xương cùng (S2, S3, S4): do viêm dây thần kinh chi phối vùng bàng Bệnh nhân khó tiểu, tiểu dắt, bí tiểu, có trường hợp tiểu máu và tiểu mủ. Đau bụng giống như các triệu chứng ngoại khoa, đau quặn bụng dưới, căng tức, bí trung đại tiện, hậu môn co thắt và cứng như đá không thể khám được, đau nhức vùng da một bên sinh dục kèm theo thương tổn da điển hình.

Zona tai: cảm giác rát bỏng, đau vùng tai, có thể lan ra thái dương và gáy. Ðau xảy ra từng cơn kéo dài nhiều ngày làm bệnh nhân không ăn, không ngủ được, đặc biệt là zona tai kết hợp với zona họng gây đau họng không nuốt được. Rối loạn cảm giác vùng mặt, liệt mặt ngoại biên, nghe kém.

Zona ở người nhiễm HIV/AIDS: bệnh zona ở người có HIV dương tính giai đoạn sớm tương tự như bệnh zona ở người bình thường. Nếu nhiễm HIV giai đoạn muộn/AIDS, zona có thể tái phát thường xuyên, tổn thương không điển hình như xuất hiện trên diện rộng, mụn nước xuất huyết, hoại tử, nhiễm khuẩn, sẹo xấu, bệnh kéo dài.

Cận lâm sàng

+ Chẩn đoán tế bào Tzanck: thấy các tế bào gai lệch hình và tế bào đa nhân khổng lồ.

+ Nuôi cấy virút: thường ít thực hiện.

+ PCR với bệnh phẩm trong dịch và các mô.

+ Sinh thiết da: được tiến hành nếu lâm sàng không điển hình.

+ Xét nghiệm HIV.

Chẩn đoán phân biệt: tùy theo từng giai đoạn

Giai đoạn khởi phát: phân biệt với các loại đau như đau đầu, viêm mống mắt, viêm màng phổi, viêm thần kinh cánh tay, đau do bệnh tim, viêm ruột thừa hoặc viêm túi mật, sỏi mật, đau quặn thận, thoát vị đĩa đệm, đau thần kinh toạ…

Giai đoạn mụn nước, bọng nước: phân biệt với herpes simpex, viêm da tiếp xúc dị ứng (với một số loại cây cỏ, côn trùng). Hiếm hơn là một số bệnh da bọng nước tự miễn như pemphigus, pemphigoid, Duhring-Brocq, bệnh tăng IgA thành dải.

ĐIỀU TRỊ

Mục tiêu điều trị: làm liền tổn thương; giảm đau; ngăn ngừa biến chứng.

Phác đồ điều trị

Trường hợp không biến chứng và ở người có miễn dịch bình thường:

+ Tại chỗ: bôi hồ nước, dung dịch màu millian, castellani, mỡ acyclovir, mỡ kháng sinh nếu có nhiễm khuẩn

+ Toàn thân:

Uống acyclovir: thuốc kháng virus có tác dụng nhanh lành vết thương, giảm số tổn thương mới và giảm đau sau Thuốc nên được dùng sớm, tốt nhất trong vòng 72 giờ đầu. Liều 800mg x 5 lần/ngày trong 7-10 ngày

Hoặc, famciclovir 500mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) x 7 ngày

Hoặc, valacyclovir 1000mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) x 7 ngày

Ngoài ra: kháng sinh chống bội nhiễm; giảm đau, kháng viêm, an thần, sinh tố nhóm B liều Nếu đau dai dẳng: bôi kem chứa lidocain và prilocain, kem capsaicin, lidocain gel, uống thuốc chống trầm cảm ba vòng, phong bế thần kinh và vật lý trị liệu kết hợp. Corticoid: có tác dụng giảm đau trong thời kỳ cấp tính và nhiều tác giả cho rằng thuốc có tác dụng giảm đau sau zona.

Trường hợp suy giảm miễn dịch hay tổn thương lan rộng:

Tiêm tĩnh mạch acyclovir 30mg/kg/ngày, chia 3 lần x 7 ngày hoặc cho đến khi thương tổn đóng vảy tiết.

Trường hợp có tổn thương mắt: kết hợp khám chuyên khoa mắt, điều trị acyclovir đường tĩnh mạch.

Đau sau zona (post herpetic neuralgia-PHN): là hiện tượng đau dai dẳng trên 1 tháng, thậm chí hàng năm với biểu hiện đau nhạy cảm, rát bỏng, đau âm ỉ hay đau nhói như dao đâm ở vùng da tổn thương zona đã lành sẹo. Bệnh thường xuất hiện ở người già, người suy giảm miễn dịch, mắc bệnh ung thư. Nguyên nhân: do VZV gây viêm, hoại tử và xơ hóa các đầu mút thần Một số trường hợp có thể kèm đau cơ, đau khớp, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống.

Điều trị và dự phòng PHN:

+ Điều trị bệnh zona bằng thuốc kháng virus sớm trong vòng 72 giờ đầu.

+ Amitripylin viên 25mg, liều 25-75mg/ngày. Tác dụng phụ: hạ huyết áp tư thế, ngủ gà, khô miệng, lú lẫn, táo bón, bí tiểu, tăng cân. Hạn chế tác dụng phụ bằng cách dùng liều tăng dần.

+ Carbamazepin viên nén 200mg, liều 400-1.200mg/ngày. Tác dụng phụ: chóng mặt, buồn nôn lúc bắt đầu điều trị, hạn chế bằng cách tăng dần liều.

+ Gabapentin viên 300mg, liều 900-2.000mg/ngày. Tác dụng phụ: ngủ gà, nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, đi loạng choạng, run. Hạn chế tác dụng phụ bằng cách tăng dần liều.

+ Pregabalin 150mg-300mg/ngày.

+ Bôi kem chứa lidocain và prilocain tại chỗ, ngày 3-4 lần.

Bệnh Zona (Giời Leo) Có Tái Phát?

23-02-2011

Một trường hợp Zona bụng (T) ở vị trí vùng thần kinh T8-T9-T10 chi phối.

Zona là 1 bệnh có biểu hiện ngoài da, gây ra bởi chủng virus thủy đậu Varicella-zoster virus (VZV). Sau khi gây bệnh thủy đậu, siêu vi tồn tại dưới dạng ngủ đông ở các tế bào thần kinh tủy sống trong nhiều năm và bị ức chế bởi hệ miễn dịch tự nhiên của cơ thể. Theo thời gian, khi bệnh nhân lớn tuổi và/hoặc hệ miễn dịch cơ thể suy yếu, các siêu vi thủy đậu ngủ đông này sẽ tái hoạt động. Chúng di chuyển dọc theo lộ trình của dây thần kinh tủy sống ra da gây nên tình trạng viêm hoại tử xuất huyết, làm bệnh nhân có cảm giác đau đớn, nóng rát kèm theo sự xuất hiện của hồng ban – chùm mụn nước và các hạch ngoại biên vùng lân cận sưng to. Sang thương thường chỉ xuất hiện ở một bên của cơ thể tạo nên hình ảnh đặc biệt của bệnh Zona.

– Bệnh chỉ xảy ra ở những người đã từng bị thủy đậu (trái rạ). Trên 10% bệnh nhân thủy đậu sẽ mắc phải Zona sau này, đặc biệt đối với những nhóm có nguy cơ cao như: nguời trên 60 tuổi; người được ghép thận hay ghép tủy xương; người bị nhiễm HIV/AIDS hay bị ung thư các loại; người đang dùng các loại thuốc ức chế miễn dịch hoặc các thuốc loại corticoids lâu ngày để điều trị suyễn, viêm khớp; người có tiền sử chấn thương, nhiễm trùng…rất dễ bị Zona sau khi bị thủy đậu.

– Trẻ em được chủng ngừa thủy đậu đầy đủ lúc nhỏ sẽ không bị thủy đậu và do đó sẽ không lo bị Zona về sau.

– Zona là một bệnh không lây. Tuy nhiên người chưa từng bị thủy đậu hay chưa được chủng ngừa thủy đậu có thể bị thủy đậu khi tiếp xúc với bệnh nhân Zona.

– Năm 2006, cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chấp thuận cho lưu hành Zostavax, thuốc chủng ngừa Zona dùng cho những người từ 60 tuổi trở lên.

– Bệnh Zona rất hiếm khi tái phát ở những bệnh nhân đã có hệ miễn dịch hoàn chỉnh.

– Góp phần nghiên cứu tỉ lệ tái phát của Zona, vừa qua, các nhà nghiên cứu của Mayo Clinic – Rochester, Minesota, Hoa kỳ – đã phân tích lại hồ sơ bệnh án của 1.669 bệnh nhân Zona ≥ 22 tuổi ở Olmsted County, Minnesota từ năm 1996 đến 2001. Kết quả ghi nhận được có 95 bệnh nhân bị Zona tái phát, trong đó 87 người tái phát một lần và 8 người bị tái phát hơn một lần. Đa số những trường hợp tái phát đều xảy ra ở những người có hệ miễn dịch hoàn chỉnh. Như vậy, tỉ lệ Zona tái phát trong gần 8 năm theo dõi là 6,2%.

Nghiên cứu này cho thấy ngay cả đối với những người có hệ miễn dịch hoàn chỉnh nhưng có tiền sử bệnh Zona, nguy cơ tái phát bệnh này vẫn xảy ra với một tỉ lệ khá cao, tương đương với tỉ lệ mắc bệnh Zona lần đầu tiên. Do đó, các tác giả khuyến cáo nên chủng ngừa Zona cho cả những người đã bị Zona.

Bs. LÊ ĐỨC THỌ – BV Hoàn Mỹ Sài Gòn