Xử Trí Bệnh Sốt Rét / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Trẻ Bị Sốt Rét: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Cách Xử Trí

Sốt là tình trạng thường gặp ở trẻ nhỏ. Tuy nhiên trẻ bị sốt rét lại là bệnh nguy hiểm mà cha mẹ cần đặc biệt lưu ý. Để phòng và điều trị bệnh hiệu quả, cha mẹ cần nắm được nguyên nhân gây bệnh do đâu và những triệu chứng điển hình trẻ có thể gặp phải khi bị sốt rét.

Nguyên nhân khiến trẻ bị sốt rét

Nói đến sốt rét chắc chắn mọi người sẽ nghĩ ngay đến nguyên nhân gây bệnh đó chính là loài muỗi Anopheles nguy hiểm. Điều này hoàn toàn đúng nhưng vẫn chưa đủ, còn có rất nhiều nguyên nhân khác gây nên tình trạng bệnh này. Chúng ta có thể kể đến một số nguyên nhân khác ngoài muỗi Anopheles như:

+ Do rối loạn vận mạch: Hầu hết tất cả mọi người đều có nguy cơ mắc tình trạng này trong đó có cả trẻ em. Khi thân nhiệt lên cao đến mức 38 – 40 độ C thì tình trạng rối loạn vận mạch hoàn toàn có thể xảy ra.

Nguyên nhân khiến trẻ bị sốt rét

Chúng ta có thể lý giải điều này bằng việc khi trẻ bị sốt, chất gây sốt nội sinh sẽ kết hợp với chất gây sốt ngoại sinh khiến thân nhiệt ở mức bình thường trở nên thấp hơn nhiệt độ bình thường trong cơ thể. Dẫn đến việc cơ thể xuất hiện tình trạng ớn lạnh, rét run, mạch ngoại vi co lại.

+ Nhiễm ký sinh trùng sốt rét: Tình trạng nhiễm trùng này xảy ra rất phổ biến ở những vùng nóng ẩm. Nguyên nhân chính là do mầm bệnh ký sinh trùng trong loài muỗi Anopheles truyền vào cơ thể khi muỗi đốt vào người và gây bệnh.

Tìm hiểu thêm: Bé bị sốt nổi mẩn đỏ khắp người

Dấu hiệu nhận biết trẻ bị sốt rét

+ Triệu chứng ban đầu

Khi bị sốt rét run, trẻ thường có biểu hiện ban đầu đó là da mặt đỏ, hơi tái, người mệt mỏi, quấy khóc, ngủ nhiều. Thân nhiệt của trẻ cao, thông thường lên tới 38 độ C trở lên nhưng trẻ vẫn có cảm giác ớn lạnh, vã mồ hôi. Bên cạnh đó, trẻ bị sốt rét còn xuất hiện những cơn đau đầu, chóng mặt khiến trẻ cảm thấy khó chịu.

Sốt rét khiến cơ thể trẻ lúc nóng lúc lạnh

+ Các dấu hiệu lâm sàng điển hình

– Sốt lạnh run: Trẻ sốt cao kéo dài khiến cơ thể trẻ mệt mỏi, chóng mặt và có cảm giác buồn nôn.

– Cơ thể trẻ lúc nóng lúc lạnh: Thân nhiệt trẻ tăng dần, nhiệt độ có thời điểm tăng cao lên đến 40 độ C, nguy cơ gây co giật ở trẻ là rất cao. Trẻ sốt nhưng cơ thể có lúc nóng ran nhưng có lúc lạnh rét run cầm cập. Với tình trạng này cha mẹ cần tìm cách để hạ sốt cho trẻ, tránh những biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra. Tình trạng nóng lạnh bất thường này ở cơ thể trẻ sẽ kéo dài lên đến 6 tiếng đồng hồ.

– Trẻ vã nhiều mồ hôi: Giai đoạn này là lúc nhiệt độ cơ thể trẻ đã hạ. Trẻ bắt đầu cảm thấy dễ chịu hơn, có cảm giác buồn ngủ nhưng người vẫn vã nhiều mồ hôi. Thời điểm diễn ra tình trạng này có thể trong khoảng 1 tiếng đồng hồ.

Điều trị và chăm sóc khi trẻ bị sốt rét

Khi trẻ bị sốt rét run thì điều quan trọng đầu tiên mà cha mẹ cần chú ý đó là nhanh chóng hạ sốt cho trẻ bằng những phương pháp đơn giản như:

+ Cho trẻ nằm nghỉ ở nơi thoáng mát, thông khí. Không nên để nhiều người vây quanh trẻ tránh tình trạng ngạt khí.

+ Mặc quần áo mỏng, thoáng cho trẻ. Lựa chọn quần áo thấm mồ hôi tốt. Tuyệt đối không giữ ấm trẻ bằng cách đắp nhiều chăn khi trẻ đang bị sốt rét.

+ Dùng khăn ấm lau người cho trẻ, chú ý lau ở các vị trí như nách, bẹn, trán để giúp hạ sốt nhanh chóng.

+ Bổ sung dinh dưỡng cho trẻ bằng cách cho trẻ ăn các thức ăn loãng, dễ tiêu. Trẻ sơ sinh mẹ nên cho bé bú càng nhiều càng tốt.

+ Trẻ bị sốt rét bao giờ cũng xuất hiện tình trạng mất nước. Vì vậy cha mẹ cần tăng cường bổ sung nhiều nước cho trẻ. Cho trẻ uống nước sôi để nguội hoặc uống oresol để bù nước, bù điện giải cho cơ thể.

+ Cần theo dõi nhiệt độ cơ thể trẻ thường xuyên. Cho trẻ uống thuốc hạ sốt khi trẻ sốt trên 38.5 độ C bằng các loại thuốc hạ sốt dành cho trẻ em theo đúng liều lượng được chỉ định. Mỗi lần uống hạ sốt cần cách nhau khoảng 5 – 6 tiếng một lần, không nên cho trẻ uống liên tục tránh gây tổn thương đến gan của trẻ.

Chăm sóc trẻ bị sốt rét đúng cách để đề phòng biến chứng xảy ra

Đối với những trường hợp trẻ sốt cao không đỡ sau khi hạ sốt thì tốt nhất cha mẹ nên nhanh chóng đưa trẻ đến cơ sở y tế để được bác sĩ thăm khám, chẩn đoán và áp dụng các phương pháp điều trị kịp thời nhất.

Bệnh Sốt Rét, Triệu Chứng Cách Phòng Bệnh Sốt Rét?

Mùa hè với khí hậu nóng bức thường là nguyên nhân của rất nhiều loại bệnh ngoài da, bệnh tay chân miệng và bệnh sốt rét cũng nằm trong số đó. Sốt rét là một bệnh truyền nhiễm do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium hoặc do muỗi Anophen gây nên. Đặc điểm của muỗi Anophen là có thể hút máu từ người này rồi lây nhiễm qua người khác nên bệnh sốt rét rất nguy hiểm vì sức lây nhiễm và lây lan nhanh.

Triệu chứng của bệnh sốt rét?

Triệu chứng của bệnh sốt rét có thể nặng hoặc nhẹ tùy thuộc vào cơ địa và tình trạng miễn nhiễm của người bệnh và phân ra thành các thời kỳ

1) Bệnh sốt rét Thời kù ủ bệnh

– Thời gian này thông thường kéo dài từ 9 đến 30 ngày có thể thay đổi tùy theo mức độ nặng hay nhẹ và sự khác nhau của từng loại ký sinh sinh trùng sốt rét

2) Bệnh sốt rét Thời kỳ phát bệnh

– Giai đoạn đầu thời kỳ phát bệnh sốt rét, biểu hiện của người bệnh giai đoạn đoạn này là người bệnh bị đau mỏi các khớp, cơ, người có biểu hiện gai rét, tiếp theo người bệnh bị sốt cao có thể lên đến 39-40oC

– Giai đoạn 2 tiếp theo của thời kỳ phát bệnh sốt rét : thời gian kéo dài sau khoảng 2 tuần, người bệnh có biểu hiện bị sốt rét, sốt nóng diễn ra liên tục theo chu kỳ và thường sốt kéo dài từ 6-12h kèm theo triệu chứng người vã mồ hôi, suy nhược, rối loạn tiêu hóa, mệt mỏi…. Với những người bi sốt rét thường xuyên sẽ kèm theo các triệu chứng như thiếu máu mãn tính với các biểu hiện dễ nhìn thấy như chóng mặt, da xanh, suy kiệt

3) Bệnh sốt rét Thời kỳ lui bệnh

– Người bệnh không còn bất kỳ một biểu hiện nào của 2 thời kỳ trên và ký sinh trùng trong cơ thể người bệnh được điều trị triệt để. Với những người thường xuyên mắc bệnh sốt rét thì cần phải theo dõi người bệnh trong vài năm để điều trị cho đến khi không còn xuất hiện bất kỳ một ký sinh trùng nào trong cơ thể người bệnh nữa.

Cách phòng bệnh sốt rét?

– Phòng bệnh sốt rét bằng cách cần phát hiện nguồn bệnh kịp thời để có cách điều trị và quản lý hợp lý và nhanh nhất

– Diệt muỗi bằng hóa chất, phòng muỗi đốt bằng cách ngăn sự tiếp xúc giữa người và muỗi Anophen truyền bệnh sốt rét

– Với những người phải đi vào vùng có sốt rét cần cho người đi vào đó uống thuốc phòng chống sốt rét

– Ở những vùng bệnh đang có dịch sốt rét cần:

+ Luôn luôn nhớ phải bỏ màn trước khi ngủ và màn phải được phun hoặc tẩm hóa chất diệt muỗi

+ Phải mặc quần dài, áo dài tay khi đi làm và bôi thuốc xua muỗi lên những vùng da hở tránh để muỗi tiếp xúc vào da

Bệnh Sốt Rét Là Bệnh Truyền Nhiễm Do Kí Sinh Trùng Sốt Rét

Là 1 bệnh truyền nhiễm do kí sinh trùng sốt rét gây ra.

Có 4 loại gồm : plasmodium (P).faciparum, P.vivax, P.ovale và P.malariae.

Ở nước ta, nguyên nhân gây bệnh sốt rét chủ yếu là do P.faciparum và là loài thường gây sốt rét ác tính chủ yếu. Ngoài ra có thể kể đến tiếp là P.vivax (15 -20 % ) , P.malariae ( 1 -2 % ).

Dấu hiệu nhận biết sớm:

– Triệu chứng điển hình của cơn sốt rét là: rét run, sốt và vã mồ hôi.

– Triệu chứng không điển hình của cơn sốt rét: sốt không thành cơn (người bệnh cảm thấy ớn lạnh, gai rét) hoặc có thể sốt cao liên tục.

– Có sốt trong 3 ngày gần đây.

Đường lây bệnh:

Đường máu qua côn trùng trung gian là muỗi Anophen, truyền máu, từ mẹ sang con khi mang thai.

Vòng đời phát triển của kí sinh trùng sốt rét:

+ Giai đoạn tiền hồng cầu:

Khi muỗi đốt người, thoa trùng sẽ từ muỗi ( nằm ở tuyến nước bọt ) sang máu người và ở máu khoảng 30 phút, đến tế bào gan rồi phân chia thành tiểu thể hoa cúc hay còn gọi là kí sinh trùng non.

+ Giai đoạn hồng cầu:

Kí sinh trùng non vào máu, tới hồng cầu, tiếp tục phân chia thành thể phân liệt trong hồng cầu, chúng phá vỡ hồng cầu để ra ngoài và lại tiếp tục chui vào hồng cầu khác gây ra cơn sốt rét ác tính có chu kì.

Thời gian của giai đoạn hồng cầu là khác nhau giữa các loài P.falciparum, P.vivax là 48 h; P.malariae là 72 h.

+ Giai đoạn ngoại hồng cầu:

Đối với P.vivax và P.malariae, sau giai đoạn tiền hồng cầu, chúng có thể ngủ ở gan và gây sốt rét tái phát.

+ Thể giao tử:

Kí sinh trùng sốt rét ở lại huyết thanh phát triển thành giao tử. Khi muỗi hút máu người, giao tử vào muỗi rồi phát triển thành thoa trùng, cư trú ở tuyến nước bọt và tiếp tục lây truyền bệnh cho người khác.

Phân loại thuốc điều trị sốt rét:

– Nhóm thuốc cắt cơn sốt rét ( diệt kí sinh trùng sốt rét trong hồng cầu: fansidar, cloroquin, quinin,artemisunat,…

– Nhóm thuốc diệt thể ngủ ở gan: primaquin.

– Nhóm thuốc chống lan truyền: primaquin.

– Nhóm thuốc dự phòng sốt rét: fansidar,mefloquin,cloroquin,…

Bệnh Sốt Rét Ác Tính

Sốt rét ác tính là một tình trạng nhiễm Ký sinh trùng sốt rét nặng nề có nhiều biến chứng ở nhiều cơ quan quan trọng như não, gan, thận, phổi…nguy cơ tử vong cao.

Sốt rét ác tính do Plasmodium falciparum gây ra và vectơ truyền bệnh là muỗi Anopheles cái.

DỊCH TỄ HỌC

Nguy cơ xảy ra sốt rét ác tính (SRAT) ở những điều kiện sau:

Người chưa có miễn dịch, chưa bị sốt rét lần nào hoặc mắc dưới 6 lần (tỉ lệ 97,2%)

Dân tộc kinh chiếm đa số hơn dân tộc ít người (tỉ lệ 93,4%)

Người mới vào vùng dịch tễ sốt rét dười 6 tháng dễ bị hơn người sống lâu ở đó (tỉ lệ 81,7%)

Tuổi 16 -30 (tỉ lệ 74%)

Làm rừng rẫy, lao động nặng hoặc đang di chuyển hành quân

Nhà xa trạm xá hoặc phát hiện muộn và điều trị muộn

Đang có dịch sốt rét xảy ra trong vùng chiếm tỉ lệ 51,2%

Các đặc điểm của P. falciparum khi xâm nhập vào hồng cầu

Plasmodium Falciparum có khả năng xâm nhập vào hồng cầu ở mọi lứa tuổi: non, trẻ, già, do đó có thể 40 -50% hồng cầu bị nhiễm Ký sinh trùng. Mật độ Ký sinh trùng càng cao càng có nhiều biến chứng

Khi xâm nhập vào cơ thể, Ký sinh trùng sốt rét có khả năng giải phóng ra độc tố, bản chất độc tố là glycosyl – phosphotidin – inotide – lipide làm hồng cầu dễ vỡ

So với các loại Plasmodium khác thì trong một hồng cầu số lượng các merozoide (tiểu thể hoa cúc) có thể gấp đôi. Cụ thể là có thể lên đến 16 -32 merozoide/1 hồng cầu trong khi đó đối với P.vivax chỉ là 6 – 12 merozoide / 1 hồng cầu

Khi xâm nhập vào bên trong hồng cầu một số Ký sinh trùng sốt rét như P. Falcifarum tạo nên các nốt lồi (knobs )trên bề mặt các hồng cầu. Các nốt này sẽ gắn vào các receptor tương ứng ở bề mặt các liên bào nội mạc của mạch máu sâu tạo nên hiện tượng kết dính hồng cầu bị nhiễm với các tế bào nội mạc mạch máu gây nên tắc mạch nhất là ở não Các protein ở nốt lồi làm chức năng nhận biết các receptor là:

Pf.EMP1 ( Plasmodium Falciparum Erythrocyte Menbranous Protein 1)

Pf.EMP 2 ( Plasmodium Falciparum Erythrocyte Menbranous Protein 2) chúng tôi ( Plasmodium Falciparum Histidin Rich Protein 1)

Pf. HRP 2 ( Plasmodium falciparum Histidin Rich Protein 2)

Hồng cầu bị nhiễm Ký sinh trùng sốt rét (thể tropozoide già ) có thể dính các hồng cầu không mang Ký sinh trùng sốt rét tạo ra hiện tượng hoa hồng dễ gây tắc mạch (không xảy ra với P. vivax).

Các biến đổi chính của hồng cầu khi bị nhiễm Ký sinh trùng sốt rét

Bề mặt hồng cầu xuất hiện các nụ lồi nên không trơn, dễ dính và gây tắc mạch.

Độ đàn hồi màng HC giảm – mất khả năng mềm dẽo nên khó đến mao mạch

Màng hồng cầu tăng tính thấm đối với Natri làm cho hồng cầu dễ vỡ gây tán huyết

Độ bền của màng hồng cầu giảm sút do đó khi thể phân liệt phát triển nhiều dễ vỡ hồng cầu, đặc biệt ở những người thiếu men G6PD.

Biến đổi ở các cơ quan Toàn thân

Sốt: do tác dụng của sắc tố sốt rét và độc tố Ký sinh trùng tiết ra tác động lên trung tâm điều nhiệt và do tác dụng của các lymphokin được tiết ra từ các đại thực bào khi phân hủy mảnh vụn hồng cầu và Ký sinh trùng sốt rét.

Thiếu máu: Vỡ hồng cầu hàng loạt mà cơ chế đã nói ở trên

Hạ đường huyết: do

Tăng nhu cầu sử dụng oxy và glucose của cơ thể . Tăng nhu cầu glucose do phân hủy glucose theo con đường yếm khí. Gan không tạo được glucose từ glycogen và tân tạo glucose từ các chất khác. Việc sử dụng quinine sẽ kích thích đảo langerhan của tụy tiết insulin gây hạ glucose máu. Ăn uống kém.

CIVD: Nghẽn mạch tạo điều kiện cho CIVD ở các trường hợp nặng. Trong các trường hợp này phức hợp V, VII, VIII, X giảm kèm với giảm tiểu cầu và fibrin cũng như giảm prothrombin gây chảy máu nặng.

Các cơ quan: Nói chung là do hiện tượng thiếu oxy do cơ chế bệnh sinh đã mô tả trên.

Não: có 3 thương tổn chính là tắc nghẽn các mao mạch, phù nề và xuất huyết quanh các mao mạch

Nghẽn mạch là hiện tượng phổ biến nhất, nhưng hầu như không để lại di chứng khi khỏi bệnh.

Thiếu oxy não làm cho quá trình chuyển hóa glucose ở não chuyển sang con đường yếm khí sản sinh ra nhiều sản phẩm chuyển hóa dở dang trong đó lactate gia tăng dữ dội trong sốt rét ác tính thể não, phản ánh qua dịch não tủy có sự gia tăng lactate.

Trong các trường hợp nặng sự thiếu oxy lâu sẽ dẫn đến hiện tượng phù nề và xuất huyết quanh các mao mạch, đặc biệt được quan sát ở não của các bệnh nhân tử vong

Thận: Thương tổn ở ống thận do đái Hb. Thiếu oxy gây hoại tử vỏ thận, làm rối loạn chức năng bài xuất nước tiểu và suy thận.

Gan: Tăng hoạt hệ thống võng nội mô để thực bào, phản ánh qua sự tăng sinh các tế bào kuffer và các lympho histocytes ở khoảng cửa. Nghẽn mạch gây thiếu máu, thiếu oxy, các tế bào phình to, hoại tử kèm ứ mật tế bào gan chung quanh các tĩnh mạch trung tâm

Phổi: Do độc tính của Ký sinh trùng cùng các chất lymphokine của đại thực bào giải phóng ra sẽ gây tăng tính thấm mao mạch làm thoát dịch gây phù phổi.

Để phát hiện sớm một sốt rét thường có nguy cơ chuyển sang sốt rét ác tính, phải theo dõi các dấu hiệu ưu tiên:

Sốt liên tục kéo dài koặc nhiều cơn kế tiếp nhau, vã mồ hôi nhiều

Rối loạn tinh thần nhẹ thoáng qua hoặc thỉnh thoảng mất định hướng không gian, thời gian.

Li bì hoặc kích thích vật vã.

Mật độ Ký sinh trùng cao: 1 -10 Ký sinh trùng/ vi trường.

Nôn nhiều hoặc ỉa chảy.

Tổ chức y tế thế giới đưa ra các tiêu chuẩn để chẩn đoán Sốt rét ác tính bao gồm:

Trong Sốt rét ác tính thể não phải hôn mê ít nhất ở giai đoạn 2 (glasgow 7 điểm cho người lớn và 2 điểm cho trẻ em ).

Thiếu máu : Hematocrit < 15 – 20 % hoặc hemoglobin <5 -6 g/l

Suy thận: Số lượng nước tiểu < 400ml/24 giờ, hoặc 12 ml / kg /24 giờ

Phù phổi với dấu hiệu suy hô hấp cấp.

Hạ đường huyết: Glucose máu < 2,2 mmol/ lit ( 0,4 mg%)

Trụy tim mạch.

Chảy máu hay đông máu rải rác nội mạch.

Toan chuyển hóa.

Đái Hb khối lượng lớn

Ngoài ra còn có các tiêu chuẩn phụ, nhưng khi những tiêu chuẩn phụ này đứng riêng rẽ thì không đủ điều kiện để khẳng định Sốt rét ác tính:

Tri giác u ám, chưa hôn mê độ 2.

Sốt rét ác tính thể não

Ở nước ta, sốt rét não chiếm 55% trong số sốt rét ác tính. Gọi sốt rét ác tính thể não khi bệnh nhân hôn mê độ 2 trở lên (glasgow < 7 điểm ) kèm dấu thần kinh nổi bật là co giật.

Thời kỳ khởi phát

Có thể đột ngột sốt cao liên tục hoặc sốt cơn, nhưng nhiều cơn liên tục kế tiếp nhau.

Rối loạn tri giác, rối loạn ý thức, li bì hoặc kích thích cuồng sảng.

Thời kỳ toàn phát

Sốt vẫn tiếp diễn

Các dấu hiệu thần kinh nổi bật với li bì rồi đi vào hôn mê, co giật.

Hôn mê thường ở trạng thái nằm yên, giảm trương lực cơ, nhưng khi có tình trạng tổn thương não giữa sẽ có tình trạng duỗi cứng mất não (tay duỗi, chân duỗi) hoặc co cứng mất não (2 tay co, 2 chân duỗi, lưng uốn cong, mắt ngước nhìn lên) thường nặng.

Co giật: thường xảy ra cơn co giật toàn thân ngắn theo kiểu động kinh hoặc các dấu tổn thương tháp hoặc ngoại tháp nhất thời, nếu hồi phục không để lại di chứng.

Các dấu hiệu toàn thân khác

Rối loạn hô hấp: tăng tiết đờm giãi, rối loạn nhịp thở, èm rối loạn tuần hoàn

Tiết niệu: Tiểu ít, ure creatinin máu có thể tăng.

Gan, lách có thể lớn, vàng da nhẹ.

Cận lâm sàng:

Công thức máu: hồng cầu giảm, có thể thấy hồng cầu non ở máu ngoại vi.

Bạch cầu bình thường có khi tăng nhất là neutrophile

Kéo máu tìm Ký sinh trùng sốt rét

Có rối loạn về men gan: SGOT, SGPT tăng, bilirubin tăng

Tiến triển và tiên lượng

Diễn biến tốt khi

Đang hôn mê bệnh nhân đột ngột la hét vật vã

Các phản xạ (gân xương, da bụng, da bìu, mí mắt) giảm hoặc mất xuất hiện trở lại .

Nhiệt độ hạ dần, mạch và huyết áp ổn định

Bệnh nhân tiểu nhiều hơn

Diễn biến xấu khi

Hôn mê ngày càng xấu hơn và kéo dài trên 3 ngày kèm mất phản xạ nuốt

Co giật nhiều kèm những cơn ngừng thở tím tái

Sốt cao liên tục hoặc hạ thân nhiệt kèm rối loạn tuần hoàn, huyết áp tụt kẹp.

Đái ít hoặc vô niệu

Nôn nhiều, ra dịch đà nâu hoặc máu

Thường tử vong trong tình trạng suy hô hấp hoặc suy tuần hoàn

Sốt rét ác tính thể đái Hb

Thường xuất hiện sau cơn tán huyết đột ngột, giải phóng lượng lớn Hb tự do, nước tiểu có Hb (lúc đầu màu hồng, về sau màu nâu đen) kèm theo thiếu máu cấp và vàng mắt nhẹ.

Sốt rét đái Hb thường xuất hiện ở những bệnh nhân sống ở vùng dịch tễ sốt rét hoặc bị sốt rét nhiều lần để cơ thể có thời gian hình thành miễn dịch. Trong trường hợp này các hồng cầu chứa ký sinh trùng sốt rét biến dạng thay đổi cấu trúc và cơ thể sản xuất ra các kháng thể kháng hồng cầu làm vỡ hàng loạt cac hồng cầu nhiễm và không nhiễm ký sinh trùng sốt rét

Bệnh nhân thiếu G6PD mắc sốt rét có thể đái Hb khi điều trị quinine hoặc primaquine.

Lâm sàng thường biểu hiện:

Khởi phát từ từ với sốt không rõ hoặc đột ngột với sốt cao, nôn mửa nhiều ra nước vàng xanh, nhức đầu và đặc biệt là đau vùng hố hông, tiểu vàng đậm

Toàn phát: Sốt liên tục hoặc thành cơn, thiếu máu lâm sàng nhanh như niêm mạc mắt nhạt màu, da xanh, vàng nhẹ sau đậm dần tương ứng với các đợt tán huyết kèm mệt mỏi, suy nhược; nước tiểu từ vàng sẫm chuyển sang mầu nâu đen đậm như bã cà phê.

Gan, lách to ra

Cảm giác đau ê ẩm vùng lưng kèm nôn ói. Nếu tình trạng tán huyết trầm trọng có thể tụt mạch và huyết áp, thiểu niệu, rồi vô niệu. Thương tử vong trong bệnh cảnh suy thận

Cận lâm sàng

Máu: Hồng cầu giảm, bạch cầu bình thường có khi tăng cao chủ yếu neutrophiles Hct giảm. Có thể không thấy ký sinh trùng sốt rét.

Nước tiểu: Hb niệu (+), không có hồng cầu nguyên vẹn, sắc tố mật (+)

Ure, creatinine máu tăng (nhiều hay ít tùy mức độ tổn thương thận)

Bilirubin toàn phần tăng trong đó chủ yếu là bilirubine gián tiếp.

G6PD có khi giảm hoặc mất hoàn toàn.

Diễn biến và biến chứng

Nếu điều trị đúng, tích cực các đợt tán huyết giảm đi nước tiểu trong dần và lui bệnh

Biến chứng thường gặp và nặng nhất là suy thận cấp do viêm tắc ống thận; tử vong do rối loạn chuyển hóa và ion, tăng kali máu, toan chuyển hóa.

Sốt rét ác tính thể gan mật

Sau thời kỳ khởi phát, bệnh cảnh lâm sàng nặng nề với sốt cao, da mắt vàng đậm, nôn nhiều, nôn ra mật, có khi nôn ra lẫn máu bầm

Gan to, đau tức

Xét nghiệm chức năng gan cho thấy: Bilirubin tăng, tỉ lệ prthrombin giảm, SGPT, SGOT tăng. Các xét nghiệm này xẽ hồi phục khi khỏi bệnh .

Sốt rét ác tính thể phổi

Chủ yếu là dấu hiệu phù phổi với khó thở, tím tái, thở nhanh 40 -50 l/ph, khạc đờm có bọt hồng, nghe phổi đáy phổi có rales ẩm to và nhỏ hạt.

Tiên lượng chung: theo GS. Trịnh kim Ảnh (bệnh viện Chợ Rẫy) đánh giá tiên lượng chung như sau:

Nhóm I: Sốt rét ác tính thể não đơn thuần, tử vong 0 -10% Nhóm II: Thể phủ tạng đơn thuần: tử vong 0 -20 %.

Nhóm III: Sốt rét ác tính thể nãobiến chứng 1 phủ tạng tử vong 0 -20 %.