Xét Nghiệm Bệnh Uốn Ván / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Uốn Ván Và Triệu Chứng Của Bệnh Uốn Ván

Bệnh uốn ván là một nhiễm khuẩn nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao, đặc trưng bởi tăng trương lực cơ và các cơn co cứng, gây ra bởi một độc tố protein mạnh là tetanospasmin do Clostridium tetani tiết ra.

Bệnh uốn ván xuất hiện rải rác ở các vùng nông thôn; ở các nước không có Chương trình tiêm chủng mở rộng thì bệnh ở trẻ sơ sinh và người trẻ tuổi chiếm tỷ lệ cao. Bệnh uốn ván thường xảy ra sau một tổn thương cấp tính như vết chích da, vết rách da, vết trầy da, bỏng, viêm tai giữa, phẫu thuật, sảy thai, sinh đẻ…

Khi mắc bệnh uốn ván tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90% . Đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật.

Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4 – 21 ngày. Tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.

Những vết thương trên cơ thể cần được xử trí đúng cách để tránh vi khuẩn xâm nhập và gây hại lâu dài – Ảnh: Shutterstock

Tại Bệnh viện (BV) Bệnh nhiệt đới T.Ư các tuần gần đây liên tục tiếp nhận các ca bệnh uốn ván nhập viện. Nhiều trường hợp mắc uốn ván với nguyên nhân ban đầu hết sức đơn giản.

Trước khi nhập viện 20 ngày, ông Trần Văn D. (45 tuổi, ở Quế Võ, Bắc Ninh) không may bị gạch rơi vào chân. Ông D. đã tự rửa và băng bó vết thương nhưng không tiêm phòng uốn ván. Khoảng 3 ngày trước khi vào viện, ông D. bị cứng hàm, khó há miệng, tiến triển tăng dần thành co cứng cơ toàn thân. Bệnh nhân có biểu hiện đau cổ, gáy…; đến khám tại BV Tai mũi họng T.Ư, ông được chẩn đoán mắc uốn ván và chuyển điều trị tại BV Bệnh nhiệt đới.

Trước bệnh nhân D., một trường hợp khác nhập viện do uốn ván là bệnh nhân Trương Thị A. (52 tuổi, ở Duy Tiên, Hà Nam). Khoảng 2 tuần trước nhập viện, ở nhà bà A. giẫm phải cọc tre, xuyên vào mu bàn chân. Bà đã tự rửa và băng bó vết thương, không tiêm phòng uốn ván. Một tuần sau tai nạn, bà A. thấy cứng hàm, khó há miệng nên vào BV huyện điều trị. Sau 3 ngày bệnh tăng nặng, co giật nhiều cơn. Bệnh nhân được chuyển lên BV Bệnh nhiệt đới T.Ư trong tình trạng co cứng cơ toàn thân, co giật. Do bị co cứng các cơ hô hấp không thở được, bệnh nhân phải mở khí quản, thở máy. “Bệnh nhân mắc uốn ván có thể tử vong do suy hô hấp bởi tình trạng co cứng các cơ hô hấp”, bác sĩ Nguyễn Trung Cấp, Phó trưởng khoa Cấp cứu, BV Bệnh nhiệt đới T.Ư lưu ý.

Theo bác sĩ điều trị, hầu hết các trường hợp nhập viện đều bị các vết thương do tai nạn sinh hoạt (cành tre đâm bàn chân, tay, đâm vào trán; vết thương do mảnh sành, do gạch, ngói), sau đó tự xử trí bằng rửa nước và băng bó, không tiêm phòng uốn ván.

Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp cho biết vi khuẩn gây uốn ván có ở mọi nơi trong đất, trong chất thải của súc vật (phân trâu, bò, ngựa). Khi lao động trong các môi trường này, vi khuẩn uốn ván dễ dàng xâm nhập vào các vết thương xây xước gây bệnh. Khi cắt sửa móng tay, chân kẽ móng cắt sâu gây vết thương bị giắt bẩn bùn, đất cũng là nguy cơ cho uốn ván xâm nhập.

Trong môi trường tự nhiên, vi khuẩn uốn ván tồn tại dưới dạng nha bào (có lớp vỏ bao bọc bên ngoài) rất bền vững. Nha bào uốn ván có thể tồn tại nhiều năm trong môi trường, chỉ bị tiêu diệt trong nước sôi 30 phút, trong môi trường dung dịch sát khuẩn 20 phút. Khi lọt được vào trong vết thương yếm khí (vết thương bị dập nát dính cát bẩn, không có không khí, vết thương bị băng bó chặt, bó lá…), nha bào thoát vỏ thành vi khuẩn, tiết độc tố uốn ván. Các độc tố này sẽ xâm nhập vào cơ thể, đi vào hệ thần kinh và gây ra co cứng cơ hoặc co giật cơ khi có kích thích, rất nguy hiểm.

Một trong các biện pháp điều trị và dự phòng uốn ván đó là tiêm phòng vắc xin uốn ván. Chi phí tiêm vắc xin cho phòng uốn ván không đắt, và hiệu quả cao. Nếu mắc uốn ván, việc điều trị lâu dài và tốn kém, chi phí từ vài chục triệu đến cả trăm triệu đồng. Với bệnh nhân Trương Thị A. nói trên, bệnh phục hồi sau 38 ngày điều trị, chi phí gần 90 triệu đồng.

Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp nhận xét, tại BV các ca bệnh uốn ván hiện thường gặp ở người lớn vì đó là những trường hợp chưa tiêm vắc xin uốn ván, hoặc việc tiêm vắc xin lâu năm đã giảm khả năng bảo vệ.

Lâu nay, vắc xin uốn ván được tiêm cho bà mẹ mang thai; sau sinh trẻ vẫn được tiêm phòng uốn ván, vì vậy hiếm gặp uốn ván ở sản phụ và trẻ nhỏ. Nhưng về lâu dài, tác dụng của vắc xin có thể giảm ở người lớn; cần đến các cơ sở y tế để được hướng dẫn tiêm phòng.

Khi bị thương ngoài da, bạn cần vệ sinh và chăm sóc vết thương đúng cách, phòng chống uốn ván:

– Rửa ngay với nước sạch để trôi chất bẩn

– Rửa lại vết thương bằng nước ô xy già từ 3 – 4 lần

– Sát trùng bằng cồn i ốt tại vết thương và quanh vết thương

– Băng vết thương lại (phủ trên gạc) và đến cơ sở y tế gần nhất

– Không tự ý đắp, bôi hoặc bó bất cứ thứ gì khác lên vết thương.

Bệnh khởi phát sau chấn thương, trung bình là 7 ngày; 15% số trường hợp khởi phát bệnh trong vòng 3 ngày và 10% khởi phát bệnh sau 14 ngày. Uốn ván toàn thân là thể bệnh hay gặp nhất. Dấu hiệu điển hình là tăng trương lực cơ và co cứng toàn thân. Lúc đầu tăng trương lực cơ ở các cơ nhai, nuốt khó và cứng hay đau các cơ cổ, vai, lưng. Kế tiếp các cơ khác cũng bị tăng trương lực gây ra cứng bụng và cứng các cơ ở gốc chi; do co cứng liên tục các cơ mặt, tạo ra một vẻ mặt nhăn nhó hay kiểu cười khẩy, cười nhăn, co cứng cơ lưng tạo ra một tư thế lưng cong ưỡn lưng.

Ở một số bệnh nhân xuất hiện các cơn co cứng toàn thân kịch phát, với cường độ mạnh, những cơn đau làm cho bệnh nhân xanh tím và đe dọa ngừng thở. Các cơn này có thể lặp đi lặp lại, có thể là tự phát hoặc do kích thích dù là rất nhẹ. Ở mức độ nhẹ, bệnh nhân chỉ bị tình trạng cứng cơ và có một vài cơn co cứng hoặc không có cơn co cứng nào. Thể vừa có dấu hiệu cứng hàm, khó nuốt, cứng cơ và các cơn co cứng. Trường hợp nặng, bệnh nhân bị nhiều cơn kịch phát, có thể bị sốt (phần lớn không sốt). Các phản xạ gân sâu tăng. Nuốt khó hoặc chướng bụng làm cho bệnh nhân ăn uống khó khăn.

Rối loạn hệ thần kinh thực vật như huyết áp tăng thất thường, hay thường xuyên; nhịp tim nhanh, loạn nhịp tim; sốt cao, vã mồ hôi. Một số biến chứng về tim mạch có thể gặp là hạ huyết áp và chậm nhịp tim, đôi khi xuất hiện ngừng tim đột ngột. Những biến chứng khác là viêm phổi, gãy xương, vỡ cơ, loét do nằm và ly giải cơ vân.

Uốn ván ở trẻ sơ sinh, thường khởi phát trong 2 tuần đầu sau khi sinh với các dấu hiệu: trẻ bỏ bú, cứng cơ và các cơn co cứng; thường là uốn ván toàn thân và dễ dẫn đến tử vong nếu không điều trị.

Uốn ván cục bộ ít gặp, biểu hiện chỉ giới hạn ở các cơ gần vết thương, đây là thể nhẹ, tiên lượng tốt. Uốn ván đầu là một hình thái hiếm gặp của uốn ván cục bộ, diễn ra sau chấn thương đầu hay nhiễm khuẩn tai. Các triệu chứng gồm cứng hàm, rối loạn chức năng một hoặc nhiều dây thần kinh sọ, thường gặp là dây số 7, tỷ lệ tử vong cao.

Nguyên nhân gây bệnh uốn ván

Do bị trầy xát và viết thương tiếp xúc trực tiếp với trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani có trong đất, cát bụi, phân trâu bò ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ …, xâm nhập vào các vết thương, vết xây xước phát triển thành ổ nhiễm trùng gây bệnh uốn ván .

Nh ững ng ười có nguy c ơ m ắc cao :

– Người làm việc ở các trang trại, các nông trường chăn nuôi gia súc và gia cầm

– Người dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại.

– Công nhân xây dựng các công trình.

– Bộ đội và thanh niên xung phong.

Đặc điểm của vi khuẩn gây bệnh:

Vi khuẩn C.tetani là trực khuẩn gram dương, di động, kỵ khí, có hình bầu dục, không có màu, nha bào có mặt ở khắp nơi trên thế giới: trong đất, môi trường kỵ khí, phân súc vật, phân người. Nha bào có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nhưng khi ở dạng các tế bào thực vật, chúng dễ dàng bị khử hoạt tính và nhạy cảm với nhiều kháng sinh như: metronidazol, penicillin…

Nguyên tắc điều trị là diệt trừ vi khuẩn, trung hòa độc tố, ngăn ngừa các cơn co cứng cơ, theo dõi và xử trí hỗ trợ hô hấp. Bệnh nhân phải được chăm sóc trong một căn phòng yên tĩnh để giám sát và theo dõi tim, phổi thường xuyên, hạn chế mọi sự kích thích. Duy trì và bảo vệ đường thở. Xử lý vết thương sạch sẽ, loại bỏ triệt để các dị vật.

– Dùng kháng sinh: tiêu diệt tận gốc tế bào thực vật là nguồn sản sinh ra độc tố. Có thể dùng một trong các thuốc như sau: penicillin 10 – 12 triệu đơn vị tiêm mỗi ngày x 10 ngày; metronidazol 500mg mỗi 6 giờ hay 1g mỗi 12 giờ; dùng clindamycin, erythromycin. Đồng thời phải điều trị đặc hiệu với nhiễm khuẩn do các vi khuẩn khác gây ra.

– Dùng kháng độc tố uốn ván : để vô hiệu hóa độc tố lưu hành trong máu và độc tố ở vết thương nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong; kịp thời dùng globulin miễn dịch uốn ván của người. Tốt nhất là nên tiêm kháng độc tố trước khi điều trị vết thương.

– Kiểm soát các cơn co cứng: Dùng một hay phối hợp các thuốc sau đây: diazepam được sử dụng phổ biến: lorazepam, barbiturat, chlorpromazin. Thuốc phong bế thần kinh cơ kết hợp với thở máy để điều trị các cơn co cứng không đáp ứng với thuốc hoặc các cơn co cứng đe dọa ngừng thở.

– Điều trị hỗ trợ: Mở khí quản có thể kết hợp hoặc không kết hợp với thở máy; bù nước và điện giải; tăng cường dinh dưỡng bằng truyền dịch hoặc cho ăn qua ống thông vào dạ dày; vật lý trị liệu để đề phòng cứng cơ; dùng heparin và các chất kháng đông khác để đề phòng tắc mạch phổi; theo dõi chức năng của thận, bàng quang và ruột; phòng chống chảy máu và loét đường tiêu hóa.

– Dùng vaccin gây miễn dịch chủ động: Tất cả bệnh nhân phải được tiêm vaccin sau khi bệnh đã phục hồi.

CÁCH XỬ TRÍ VẾT THƯƠNG BỊ NHIỄM TRÙNG

Bất kỳ vết thương xuyên qua da nào cũng có thể gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng xảy ra do mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, hoặc qua vật gây ra vết thương (ví dụ như một con dao bẩn) hoặc từ những nguồn khác sau khi gây ra vết thương. Vết cắn, vết cắt, vết đâm chích, vết bỏng và những chỗ nứt, gãy hở đều có thể mang đến nguy cơ nhiễm trùng. Bất kỳ vết thương xuyên qua da nào cũng có thể gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng xảy ra do mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, hoặc qua vật gây ra vết thương (ví dụ như một con dao bẩn) hoặc từ những nguồn khác sau khi gây ra vết thương. Vết cắn, vết cắt, vết đâm chích, vết bỏng và những chỗ nứt, gãy hở đều có thể mang đến nguy cơ nhiễm trùng.

Có nhiều điều bạn có thể thực hiện để giảm nguy cơ nhiễm trùng.

Vi khuẩn uốn ván vào cơ thể như thế nào?

Uốn ván là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván có tên khoa học là Clostridium tetani gây ra. Ở dạng nha bào, vi khuẩn có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nha bào uốn ván có trong đất, cát bụi, phân trâu, bò, ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt khuẩn kỹ, sắt thép gỉ… Nha bào uốn ván xâm nhập vào cơ thể qua vết thương, sau đó thoát nha bào thành thể hoạt động, giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền co cứng đó xuất hiện các cơn co giật. Bệnh nhân bị tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim. Uốn ván có tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90%, đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%.

Những người có nguy cơ mắc bệnh là: người lao động nông nghiệp, làm việc ở các trang trại, các nông lâm trường, chăn nuôi gia súc và gia cầm, dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại, công nhân xây dựng…

Uốn ván là bệnh nguy hiểm dễ gây tử vong, nên mọi người cần cảnh giác phòng tránh bệnh. Phụ nữ mang thai cần tiêm vaccin phòng bệnh uốn ván để phòng uốn ván khi sinh. Khi bị vết thương, đặc biệt vết thương bẩn cần xử lý đúng cách, rửa vết thương bằng nước sạch để trôi chất bẩn; rửa lại vết thương bằng nước ôxy già từ 3 – 4 lần; sát trùng bằng cồn iod tại vết thương và quanh vết thương; dùng băng vô khuẩn để băng vết thương, sau đó đến cơ sở y tế gần nhất để khám và tiêm phòng uốn ván.

Uốn Ván Là Gì? Cách Nhận Biết Bệnh Uốn Ván

Uốn ván là gì? Bệnh còn có tên gọi khác là phong đòn gánh do vi khuẩn uốn ván gây nên. Vi khuẩn uốn ván gây ra nhiều tổn hại đến hệ thần kinh và được tìm thấy khắp ở mọi nơi. Các bạn cần tìm hiểu qua những dấu hiệu nhận biết bệnh cùng cách thức điều trị hiệu quả để bảo vệ sức khỏe an toàn.

Bệnh uốn ván là gì?

Như đã nhắc đến ở trên thì bệnh uốn ván chính là do một loại vi khuẩn uốn ván với tên gọi Clostridium tetani gây nên. Loại vi khuẩn này có nhiều trong đất và hầu như nơi đâu cũng xuất hiện, các bạn nên cẩn thận để không bị nhiễm phải. Khi nhiễm vi khuẩn uốn ván hệ thần kinh sẽ bị tổn thương khiến các cơ bắp dần bị tê liệt và có thể dẫn đến tử vong.

Chính vì thế mỗi người nên cẩn thận tìm hiểu qua các triệu chứng uốn ván để nhanh chóng khắc phục khi mắc phải.

Dấu hiệu nhận biết bệnh uốn ván

Bệnh uốn ván là loại bệnh nguy hiểm mọi người cần phải đề phòng, một số dấu hiệu dễ nhận thấy khi bị nhiễm vi khuẩn uốn ván như:

Toàn cơ thể bị căng cứng do các cơ bị tê liệt khó hoạt động được.

Trong vòng 7 ngày kể từ khi bị vi khuẩn uốn ván xâm nhập bệnh nhân dễ bị co giật đau đớn thường xuyên.

Các cơ chủ yếu như cơ lưng, vai, cổ, bụng, tay, đùi đều bị ảnh hưởng gây đau nhức và căng cứng.

Trường hợp bệnh nặng vi khuẩn xâm nhập sâu và lan nhanh có thể khiến bệnh nhân ngừng thở.

Một số trường hợp bị nhiễm uốn ván cục bộ cơ thể bệnh nhân sẽ xuất hiện các dấu hiệu đau nhức tại vị trí bị nhiễm. Để hiểu rõ hơn về triệu chứng bệnh uốn ván các bạn nên tham khảo qua ý kiến bác sĩ.

Nguyên nhân nào dẫn đến nhiễm bệnh?

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng cơ thể nhiễm bệnh uốn ván, các bạn cần lưu ý để phòng chống bệnh.

Bị nhiễm trùng tại các vết thương hở, các vết thương với kim loại như sắt thép gỉ đâm vào da.

Không tiêm phòng uốn ván trước đó khiến hệ miễn dịch kháng bệnh bị yếu đi, cơ thể dễ dàng nhiễm bệnh khi bị nhiễm trùng hơn.

Các vết thương hở như xăm mình, xỏ khuyên tai, tiêm bị nhiễm trùng có thể dẫn đến bệnh uốn ván.

Bị gãy xương hở, bị đạn bắn, bị bỏng, bị động vật cắn, lở loét do nhiễm trùng ở chân cũng có thể dẫn đến mắc bệnh.

Có rất nhiều nguy cơ khiến cơ thể chúng ta dễ dàng nhiễm bệnh, các bạn cần cẩn trọng trong sinh hoạt hàng ngày để hạn chế.

Phương pháp khắc phục bệnh uốn ván là gì?

Để đảm bảo cơ thể khỏe mạnh tránh trường hợp bị nhiễm vi khuẩn uốn ván thì trước hết trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh cần tiêm phòng uốn ván. Trong sinh hoạt và công việc hàng ngày mỗi người nên cẩn trọng tránh tiếp xúc nhiều với các tác nhân gây bệnh. Trường hợp có nguy cơ nhiễm bệnh các bạn cần đến ngay bệnh viện để bác sĩ chẩn đoán và áp dụng phương pháp điều trị thích hợp nhất.

Bác sĩ sẽ sử dụng các phương thuốc thích hợp hay tiêm phòng kháng độc, thực hiện loại bỏ mô chết giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng tại vết thương. Tùy vào tình trạng bệnh bệnh nhân sẽ điều trị từ 2 – 4 tháng đến khi cơ thể bình phục.

Mọi trường hợp xin tư vấn ý kiến bác sĩ các bạn nên liên hệ ngay đến địa chỉ uy tín để được giải đáp mọi thắc mắc. Những thông tin trên giúp giải đáp rõ bệnh uốn ván là gì và cần lưu ý gì rồi, các bạn nên tìm hiểu để chủ động phòng bệnh.

Bệnh Uốn Ván Trên Trâu Bò

CĐàn trâu nhà tôi có 1 con tự nhiên có triệu chứng: thân thịt cứng, lạnh toàn thân, da thịt không có tính đàn hồi, hơi thở lạnh, thân nhiệt 37,8oC, đi tiểu ít, nước tiểu bình thường, phân hơi lỏng. Cuối cùng trâu chết. Tôi chưa biết đây là bệnh gì. Mong được quý công ty giải đáp. Tôi xin chân thành cảm ơn. (Hoàng Văn Thắng – Hà Ngọc, Hà Trung, Thanh Hóa – 09369720xx – 10/2007)

Mến gửi anh Hoàng Văn Thắng !

Với những biểu hiện bệnh như anh mô tả, tôi chẩn đoán con trâu nhà anh đã bị bệnh uốn ván (tên khác: Phong đòn gánh, Tê-ta-nốt / Tetanos, Tetanus). Nguyên nhân do trực khuẩn yếm khí triệt để Clostridium tetani gây nên. Hầu hết động vật có vú (hữu nhũ) đều có thể bị bệnh này, kể cả người (một giảng viên bộ môn Ngoại khoa, ĐH Nông nghiệp 1 đã từng “tử vì nghệ” bởi bệnh này). Bệnh do vi khuẩn nhưng không truyền nhiễm (không lây lan), bằng chứng là đàn trâu nhà anh chỉ có 1 con bị bệnh. Lý do là C. tetani muốn gây bệnh phải xâm nhập vào cơ thể qua vết thương sâu, kín, dập nát, dơ bẩn (vết thiến, tiêm, phẫu thuật; giẫm phải gai, đinh; côn trùng đốt…). Như vậy, câu chuyện anh lực điền bị cua cắp chết khi làm đồng hoàn toàn có thể là sự thật. Tuy nhiên, 10% ca bệnh ở người không tìm thấy đường xâm nhập. Sau 1-2 tuần ủ bệnh, C. tetani tiết ngoại độc tố tetanospasmin (neurotoxin) theo máu, bạch huyết tác động lên hệ thần kinh gây nên các triệu chứng như anh đã quan sát được: cơ hàm co cứng, bắp cơ hằn rõ, lưng uốn cong (đòn gánh), đuôi cong lên hoặc quặp xuống, 4 chân thẳng cứng…. Bệnh súc chết do đói khát (không ăn uống được), suy hô hấp, liệt cơ tim.

Điều trị: cần phát hiện sớm, chẩn đoán kịp thời, điều trị khẩn cấp (tỉ lệ tử vong ở người: 40-50% ca bệnh)

+ Tiêm: kháng độc tố uốn ván, giải độc tố uốn ván, kháng sinh (tiêm 3 vị trí khác nhau)

+ Mở rộng & vệ sinh vết thương

+ Để bệnh súc nơi yên tĩnh, ánh sáng dịu, truyền dung dịch điện giải, bơm thức ăn lỏng, thường xuyên trở mình, xoa bóp cơ

+ Có thể dùng thêm thuốc chống co giật, trợ hô hấp, an thần

Phòng bệnh:

+ Thường xuyên quan sát để phát hiện, xử lý, chăm sóc vết thương; tuân thủ nguyên tắc vô trùng khi tiêm truyền, phẫu thuật, thiến hoạn

+ Vaccin: người có nguy cơ nhiễm bệnh cao (làm ruộng, chăn nuôi, bác sĩ thú y, công nhân vệ sinh, thanh niên xung phong, phụ nữ ở lứa tuổi sinh đẻ…), động vật quý, gia súc trong vùng có nguy cơ nhiễm bệnh cao… nên được tiêm vaccin; C. tetani không tạo miễn dịch nên sau khi khỏi bệnh vẫn phải dùng vaccin

Một số hình ảnh:

Vui để học:

Các thế hệ giảng viên, sinh viên Khoa Chăn nuôi Thú y – Đại học Nông nghiệp 1 – Hà Nội đã sáng tác & “lưu truyền trong dân gian” bài thơ về C. tetani với mục đích để dễ học, dễ nhớ, dễ “đi vào lòng người” như sau:

Môi trường thối, óc đen, máu rữa Bôn ba ngang dọc đã 8 năm Gram dương, kị khí, ghét đường Ngoại độc tố giết phường chuột, thỏ Tê-ta-ni chàng ơi ! Thạch đứng đây mà lòng rạn vỡ Nha bào hình dáng que diêm Chàng thù thứ huyết thanh miễn dịch Chàng ghét loài chuột bạch sâu cay Thần kinh hệ khi nhiễm bệnh này Toàn thân cứng nhắc, cơ hàm khó nhai

BSTY Nguyễn Minh Điệp

Nhấn vào đây để xem tất cả các tin kỹ thuật nuôi bê, trâu, bò, bò sữa

Tổng Quan Về Bệnh Uốn Ván

Bệnh uốn ván là một bệnh nhiễm trùng do Clostridium tetani gây nên. Vi trùng tiết ra tetanospamin, là độc tố ảnh hưởng đến hệ thần kinh, gây ra biểu hiện co cứng cơ và co giật toàn thân. bệnh diễn biến khó lường trước được, điều trị phức tạp, tỉ lệ tử vong còn cao. Bệnh không gây miễn dịch nên khi khỏi bệnh vẫn phải tiêm phòng để tránh tái phát.

I. Tác nhân gây bệnh

Clostridium tetani là trực khuẩn gram dương, kích thước 4-10 x 0,4-0,6 mm, có lông quanh thân, di động tương đối trong môi trường yếm khí. Trực khuẩn có thể tạo bào tử ở cuối thân, xuất hiện ở dạng hình dùi trống hoặc đinh ghim. Bào tử uốn ván có sức đề kháng rất cao, chịu đựng được sức nóng đun sôi 1 đến 3 giờ, tồn tại được trong dung dịch sát trùng như phenol, formalin. Trong đất khô, thiếu ánh sáng và không khí bào tử có thể sống đến nhiều năm. Bào tử hiện diện trong đất có nhiều phân, đôi khi cũng tìm thấy trong bụi.

II. Dịch tễ học

Các lứa tuổi đều có thể mắc bệnh. Ở các nước đang phát triển, uốn ván sơ sinh là một trong những nguyên nhân lớn gây tử vong. Tỷ lệ này ngược lại với các nước đã phát triển, đa số bệnh uốn ván xảy ra ở người lớn tuổi do lơ là việc tiêm phòng.

Nam mắc bệnh nhiều hơn nữ (2,2 đến 1,6/1). Tỷ lệ tử vong ở phái nam cũng cao hơn nữ từ 1,3 đến 3 lần.

3. Phân bố địa dư

Bệnh thường gặp ở vùng khí hậu nóng, ẩm và đất có nhiều chất hữu cơ.

– Vết thương da niêm do tai nạn giao thông, thương tích chiến tranh, tai nạn lao động. Thường là những vết thương bẩn, dập nát. Ngoài ra có thể từ phỏng, tiêm chích không vô trùng.

– Tổn thương da niêm trường diễn: chàm, loét hoại tử da, ung thư da, viêm da do quang tuyến, viêm tai giữa.

– Vết thương phẫu thuật: thường là sản phụ khoa, đại tràng, vết sẹo cũ.

– Phá thai và đỡ đẻ không vô trùng

– Không tìm thấy đường lây: Tỷ lệ 10 %.

III. Lâm sàng

Bệnh cảnh lâm sàng của uốn ván thường xếp làm 4 loại chính:

– Uốn ván toàn thân.

– Uốn ván cục bộ.

– Uốn ván đầu.

– Uốn ván rốn.

Trong bệnh cảnh uốn ván cần chú ý đến:

Thời kỳ ủ bệnh: là thời gian từ lúc bị thương đến lúc xuất hiện triệu chứng đầu tiên, trung bình từ 7 đến 14 ngày, ngắn nhất là 48 đến 72 giờ.

Thời kỳ khởi phát: là thời gian từ lúc có triệu chứng đầu tiên đến lúc xuất hiện dấu hiệu co thắt hay co giật, trung bình từ 2 đến 5 ngày.

Nếu thời kỳ ủ bệnh và thời kỳ khởi phát càng ngắn thì bệnh càng nặng. Người nghiện ma túy bị uốn ván thì bệnh thường nặng, nguyên nhân chưa rõ.

a. Uốn ván toàn thân

Là thể bệnh uốn ván thường gặp nhất. Bệnh khởi phát với mệt mỏi, nhức đầu, mỏi quai hàm và nhai khó, nói khó, nuốt vướng, uống nước sặc. Dần dần, hàm cứng không há lớn được. Thăm khám sẽ thấy:

– Cơ nhai co cứng, nổi rõ khi cử động.

– Dùng cây đè lưỡi cố mở hàm bệnh nhân thì hàm càng khít chặt lại.

– Không tìm thấy điểm đau rõ rệt ở vàng quai hàm.

Giai đoạn toàn phát uốn ván thể điển hình bao gồm các dấu hiệu :

Xuất hiện và lan tràn theo một trình tự nhất định, bắt đầu từ cơ nhai, kế đến là các cơ ở mặt làm cho bệnh nhân có nét mặt cười nhăn; sau đó đến cơ gáy, cơ lưng, cơ bụng, cơ chi dưới và cuối cùng mới đến cơ chi trên. Hiếm khi có co cứng cơ liên sườn.

Tùy theo nhóm cơ co cứng chiếm ưu thế mà bệnh nhân có một trong các tư thế đặc biệt như sau:

– Cong ưỡn người ra sau.

– Thẳng cứng cả người như tấm ván.

– Cong người sang một bên.

– Gập người ra phía trước.

Co cứng toàn thân tự nhiên hoặc do kích động bởi va chạm, ánh sáng chói, tiếng ồn. Nguy hiểm nhất là cơn co thắt hầu họng gây khó nuốt, sặc đờm và co thắt thanh quản đưa đến tím tái và ngưng thở.

Khó nuốt, khó nói, khó thở do co thắt hầu họng, tăng tiết đờm nhớt, tắc nghẽn đường hô hấp.

– Tỉnh táo.

– Không sốt cao lúc mới phát bệnh và 48 giờ đầu.

– Giai đoạn chót: huyết áp tụt.

B. Uốn ván cục bộ

Co cứng cơ khu trú ở vị trí tương ứng với nơi xâm nhập của vi trùng uốn ván. Bệnh thường nhẹ và kéo dài, diễn tiến tự khỏi.

Bệnh hay gặp ở người đã có miễn dịch một phần với tetanospasmin (ví dụ đã được tiêm phòng SAT khi bị thương nhưng không xử trí vết thương đúng và không tiêm ngừa VAT). Co cứng cơ có thể lan sang chi đối diện hoặc có thể diễn tiến sang uốn ván toàn thân khi luợng độc tố đạt đến mức đủ đến hệ thần kinh trung ương.

C. Uốn ván thể đầu

Là dạng đặc biệt của uốn ván cục bộ. Vết thương khu trú ở vùng đầu, mặt, cổ, thời gian nung bệnh thường ngắn hơn.

Có hai loại biểu hiện:

Khởi đầu với triệu chứng co thắt hầu họng làm bệnh nhân khó nuốt, uống nước bị sặc.

Thường gặp hơn thể không liệt.

Liệt mặt ngoại biên: thường gặp nhất, liệt cùng bên với vết thương, liệt cả hai bên nếu vết thương ở ngay giưõa sống mũi.

Liệt dây thần kinh III, IV, VI: hiếm gặp hơn.

D. Uốn ván rốn

Thời gian nung bệnh: 3 – 5 ngày.

Biểu hiện: trẻ bỏ bú, nhắm mắt, khóc không ra tiếng rồi không khóc, bụng co cứng, bàn tay nắm chặt, chân co cứng. Trẻ thường sốt cao, co giật nhiều, co thắt tím tái. Bệnh tiến triển tốt khi bé mở mắt, ngủ được, khóc to dần, hết co giật. Tỷ lệ tử vong còn rất cao: từ 70 đến 80%, do suy hô hấp, bội nhiễm, suy dinh dưỡng.

Đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều trị bệnh uốn ván.

Phòng bệnh phải riêng biệt, bảo đảm yên tĩnh, không tiếng động, ánh sáng dịu.

Bảo đảm dinh dưỡng đầy đủ, bù hoàn nước điện giải thích hợp, thức ăn thường là súp, sữa bơm hoặc nhỏ giọt qua ống thông dạ dày để tránh hiện tượng trào ngược dạ dày thực quản khi bệnh nhân co giật và co thắt.

Vệ sinh cá nhân hàng ngày, hút đờm nhớt thường xuyên, xoay trở mỗi 4 giờ để tránh loét.

– Kháng độc tố uốn ván.

– Chống co giật

– Chống suy hô hấp:

Hút đờm thường xuyên, thở ôxy ngắt quãng

Mở khí quản khi cần thiết

Săn sóc bệnh nhân đã mở khí quản

Diệt vi trùng uốn ván

Điều chỉnh rối loạn hệ thần kinh thực vật

– Phòng ngừa và điều trị các biến chứng thường gặp:

Loét dạ dày tá tràng

Loét do nằm lâu

Những biến chứng ít gặp hơn: thuyên tắc phổi, ly giải cơ vân gây suy thận cấp.

VI. Phòng ngừa

Phòng tái phát

Bệnh uốn ván không tạo được miễn dịch, do đó phải tiêm giải độc tố uốn ván (VAT) liều đầu ngay cùng thời điểm với tiêm kháng độc tố nhưng ở vị trí khác và với kim chích khác. Tiêm nhắc lại lần 2 và lần 3, mỗi lần cách nhau 4 tuần.

Tiêm phòng uốn ván:

Trẻ mới sinh:

Tiêm phòng theo lịch phòng ngừa uốn ván, bạch hầu, ho gà theo lịch sau:

(DPT: Diphtheria – Pertussis – Tetanus tức bạch hầu – ho gà – uốn ván. Td: Tetanus và giải độc tố bạch hầu đã được giảm liều dành cho trẻ từ 7 tuổi trở lên và người lớn).

chúng tôi