Video Triệu Chứng Nhồi Máu Cơ Tim / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Triệu Chứng Nhồi Máu Cơ Tim Cấp

Chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp

Khi có 2 trong 3 các dấu hiệu sau:

Triệu chứng “đau ngực kiểu mạch vành”: Đau vùng giữa ngực hoặc ngực trái, đau tức nặng hoặc như có ai bóp nghẹt, đau lan lên vai trái, hàm dưới, lan ra mặt trong cánh tay trái đến ngón út.

Điện tâm đồ biến đổi điển hình.

Động học – các thay đổi men tim và các “chất đánh dấu tim” khác.

Triệu chứng lâm sàng nhồi máu cơ tim cấp

Cơn đau ngực kiểu mạch vành tức giống cơn đau ngực trong thể bệnh đau thắt ngực như đã biết, nhưng khác biệt ở 3 điểm:

Cường độ lớn hơn.

Không giảm đi dù nghỉ tĩnh hoặc ngậm dưới lưỡi Trinitrin.

Ngoài ra thường kèm theo hốt hoảng, “cảm giác chết tới nơi”, hay kèm thêm một số dấu hiệu thần kinh tự chủ như vã mồ hôi, tái nhợt da, lạnh đầu chi, buồn nôn, nôn, mệt, “khó thở”. Hồi hộp, trống ngực, kèm mạch nhanh huyết áp tăng của cường giao cảm hay gặp ở nhồi máu cơ tim mặt trước. Mạch chậm, huyết áp hạ… của cường phế vị hay gặp ở nhồi máu cơ tim mặt hoành (sau – dưới).

Nhưng 15 – 20% trường hợp nhồi máu cơ tim lại không có đau (nhồi máu cơ tim thầm lặng), chỉ có mỗi cảm giác “khó thở”, hoặc lú lẫn. Đó là trong số những bệnh nhân: Cao tuổi, tiểu đường, tăng huyết áp, hậu phẫu và những nhồi máu cơ tim khởi đầu ngay bằng biến chứng nặng như phù phổi cấp, sốc, rung thất …

Đau ngực là triệu chứng của nhồi máu cơ tim cấp

Điện tim ECG

Có động học điển hình của những biến đổi đoạn ST, sóng T và sóng Q.

Sóng “T vành” (phản ánh thiếu máu cục bộ ở vùng bao quanh tổn thương và hoại tử): T cân, nhọn và ngày càng âm thêm mãi để sẽ tuần tự (và trễ muộn hơn chu trình biến đổi ST) thun lên trở về bình thường hoặc “tối ưu” gần bằng mức bình thường cũ.

Nhưng lại có một số ít nhồi máu cơ tim có ST chênh lên này lại không có Q. Chỉ vì góc độ điện tim ở những bệnh nhân này không vẽ ra được Q, chứ không có nghĩa rằng không bị hoại tử, mà chứng minh được hoại tử bằng sinh hóa và các chất đánh dấu nêu ở dưới

Như vậy chính “động học” nêu trên có giá trị chẩn đoán quyết định. Vậy phải làm điện tâm đồ ngay từ đầu (và nên so sánh với điện tâm đồ cũ, nếu có), “theo dõi” điện tâm đồ nhiều lần mỗi 3 giờ, rồi mỗi ngày

Các chất đánh dấu tim:

Gồm các men tim, và các protein tim như Troponin T & I, myoglobin … Tất cả đều cần xét động học (điển hình cho nhồi máu cơ tim cấp phải tiến rồi thoái triển): tăng (dần tới đỉnh rồi giảm dần theo những thời điểm nhất định).

Troponin T hoặc Troponin I (bình thường < 0,2 nanogam), kể từ 1996 được xếp lên hàng đầu, vượt trội hơn cả CK-MB về 2 mặt:

Độ nhạy, độ chuyên biệt cao. Riêng về độ chuyên biệt cao hơn CK-MB thì Troponin có nhiều ưu thế:

Khi chẩn đoán phân biệt nhồi máu cơ tim không ST chênh lên với đau thắt ngực không ổn định mà đôi khi có tăng CK-MB nhưng không thể làm tăng Troponin.

Khi cần phát hiện nhồi máu cơ tim cấp ở bệnh nhân hậu phẫu mà CK-MB đã tăng do vết mổ vào cơ bắp.

Khi muốn khẳng định nhồi máu cơ tim cấp ở những người đang có những hủy hoại cơ nhiều (CK-MB cũng tăng) như viêm đa cơ, loạn dưỡng cơ, suy thận mạn, thể thao nặng (ví dụ chạy việt dã); hoặc ở những bệnh nhân xuất huyết não hoặc nhồi máu não đang có những hủy hoại mô não (CK-BB tăng và cả CK-MB cũng có tăng); hoặc ở những bệnh nhân đang bị nhồi máu ruột, ung thư phế quản – phổi và tuyến tiền liệt. [Chú ý CK-MB cũng như các men tim khác trong nhồi máu cơ tim vẫn rất riêng: có động học rõ rệt và đặc thù].

Tuy nhiên, Troponin không hơn CK-MB khi cần phân định nhồi máu cơ tim với chấn thương tim, phẫu tim, sốc điện khử RT liên tiếp, một số bệnh nhân có tổn thương tế bào cơ tim như viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim. Bởi lẽ cả hai đều là dấu ấn tế bào cơ tim bị hủy thì đều tăng trong những trường hợp nêu trên.

Troponin còn vượt trội ở chỗ tăng sớm (2 giờ sau khởi phát đau), đỉnh điểm 24 – 48 giờ, và mãi 5 – 14 ngày mới trở về bình thường …Với việc duy trì “sự đánh ấu” lâu nhất như thế, Troponin bao gồm ưu điểm (sớm) của Myoglobin, CK-MB và cả ưu điểm “muộn” của LDH, LH1.

Men creatinephosphokinase (CPK), gọi gọn là creatinekinase (CK) mà men đồng vị là CK-MB. Nó khởi tăng từ giờ thứ 3 – 12, đỉnh điểm ở giờ thứ 24, về bình thường giờ thứ 48 – 72 giờ (2 – 3 ngày).

Nếu bệnh nhân đến trễ đã quá thời gian đỉnh và thời gian hết của CK-MB, kể cả đã ngày thứ 10, thì quả nhiên nhất thiết phải dựa vào men tim LDH, LH1 và cả Troponin nữa.

Myoglobin quý ở chỗ không đợi 6 giờ mà < 2 giờ đã tăng phóng ngay rất nhanh từ hoại tử, và đỉnh điểm rất sớm < 6 giờ. Lại rất nhạy (tăng rất cao), nên sự âm tính của nó (không sợ bị âm tính giả) giúp loại trừ nhồi máu cơ tim cấp ở trường hợp đang nghi ngờ bị nhồi máu cơ tim. Nhưng độ chuyên biệt thấp (không đặc hiệu) cho nên đặc tính chưa khẳng định được là nhồi máu cơ tim.

Các chất đánh dấu tim nào tăng sớm hơn nữa và cho kết quả nhanh hơn nữa sẽ giúp quyết định dùng thuốc tiêu sợi huyết càng tốt (trước 2 – 4 giờ, không sau 6 – 12 giờ).

Men tim biến đổi là triệu chứng của nhồi máu cơ tim

Một số dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng khác

Đó là những dấu hiệu tuy không xếp vào 3 vấn đề của “tiêu chuẩn” chẩn đoán nêu trên, nhưng khi thăm khám thường nhận thấy, và cần tìm:

Huyết áp tâm thu hạ thấp dần, hạ khoảng 10% HA ban đầu (cũng có thể 30 mmHg so với trước); cùng với những dấu hiệu của huyết động không ổn định.

Sốt nhẹ sau 48 giờ, bạch cầu tăng nhẹ (không quá 12.000-15.000/ml) trong 3 – 4 ngày, khi bạch cầu hạ xuống về bình thường thì bắt đầu tăng lên nhẹ của tốc độ lắng hồng cầu (sẽ kéo dài sang tuần thứ 2), (3 điều này cần phân biệt với biến chứng bội nhiễm phổi, nhiễm trùng tiểu …).

Tăng nhẹ đường huyết (chớ vội quy ngay tiểu đường vào chẩn đoán).

Loạn nhịp ngoại tâm thu rải rác (thưa).

Mỏm tim đập khó sờ, loạn động hoặc thêm vùng đập của chỗ thành thất bị hoại tử chuyển động nghịch thường.

Nghe phổi tìm ran ứ đọng đáy phổi (có thể 1/3 ưới).

Kiểm tra không có tĩnh mạch cổ nổi (cảnh giác nhồi máu cơ tim thất phải).

Siêu âm Doppler mầu

Nay cần làm (tại giường) cho tất cả bệnh nhân nhồi máu cơ tim, không phải để có chẩn đoán dương tính mà để đánh giá chức năng thất, tầm soát biến chứng, hướng dẫn sử dụng thuốc ức chế men chuyển, chẹn bêta … Ví dụ:

Rối loạn chuyển động vùng ở mức nào, nhất là ở bệnh nhân đau ngực kiểu mạch vành mà cứ kháng trị, có tăng áp động mạch phổi chưa, phân suất tống máu (EF) của thất trái bắt đầu tụt chưa?.

Tầm soát biến chứng sa van hai lá, biến chứng thủng vách liên thất, biến chứng mỏng, giãn, phình thất, biến chứng huyết khối bám mặt trong thành thất, biến chứng tràn dịch màng ngoài tim …

Biên tập: Cardocorz – Dong riềng đỏ

Những Triệu Chứng Cảnh Báo Nhồi Máu Cơ Tim

Bệnh tim là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ. Biết những dấu hiệu của nhồi máu cơ tim có thể ngăn ngừa những hệ lụy đáng tiếc xảy ra.

Rất nhiều phụ nữ thường bỏ qua những dấu hiệu cảnh báo của cơ thể trước khi cơn nhồi máu cơ tim xảy ra. Nhận biết và phát hiện ra những triệu chứng không điển hình này là cách duy nhất giúp chị em được cấp cứu kịp thời, bảo toàn sức khoẻ sau nhồi máu cơ tim.

Phụ nữ thường bị nhồi máu cơ tim nhiều hơn nam giới, các triệu chứng thường không rõ ràng, thêm vào đó còn ít được sự quan tâm chú ý. Những triệu chứng nhồi máu cơ tim ở phụ nữ và nam giới lại khác nhau. Nói chung các dấu hiệu ban đầu có thể rất mơ hồ như mệt mỏi, nóng ran ở ngực…

Một nghiên cứu mới đăng trên Tạp chí Y học “British Columbia” cho thấy tỷ lệ các cơn đau tim là 19% ở phụ nữ so với 13,7% ở nam giới. Điều gì đã xảy ra khi mà những dấu hiệu của bệnh thường bị bỏ qua ở người phụ nữ.

Thỉnh thoảng có cảm giác nóng ran ở ngực, bị chèn ép ở ngực gây cảm giác khó chịu, mệt mỏi. Đôi khi có thể nhầm lẫn với sự lo âu, những căng thẳng thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng cảm giác này lặp đi lặp lại mỗi ngày, trong trường hợp như vậy nên đi khám và làm các xét nghiệm cần thiết.

Ở nam giới cảm giác căng tức thường bắt đầu ở ngực trước khi lan đến cánh tay. Nhưng ở phụ nữ cơn đau thường khu trú hơn ở ngực và tương tự như cơn đau thắt ngực.

Đau nhói ở phần trên của cơ thể: cổ, lưng, xương hàm…

Dấu hiệu này được cảm nhận bởi đau hai cánh tay, lưng, vai, cổ, xương hàm hoặc phía trên dạ dày (phía trên rốn). Điều này khá phức tạp.

Phụ nữ ít quan tâm chú ý đến các triệu chứng của bệnh vì họ thường nghĩ chỉ là mệt mỏi đơn thuần hoặc đau ở xương và chỉ dùng thuốc kháng viêm. Nhưng cần chú ý hơn vì các cơn đau ở lưng, cổ, xương hàm là dấu hiệu nhồi máu cơ tim thường gặp ở phụ nữ hơn ở nam giới.

Mệt mỏi bất thường, cảm giác nghẹt thở

Ở đàn ông, cần cảnh báo các dấu hiệu khi họ đang hoạt động thể chất, trong lúc đang làm việc, có cảm giác cánh tay như bị tê liệt hoặc không thể thở được tuy nhiên lúc nghỉ ngơi các dấu hiệu sẽ biến mất.

Ở phụ nữ thì khác, các cơn đau tim có thể xảy ra khi ngồi ngay cả khi ngủ, điều đó có nghĩa là dấu hiệu của nhồi máu cơ tim có thể xảy ra lúc nghĩ ngơi hơn là lúc vận động.

Ngoài ra có các dấu hiệu khác cần chú ý không được bỏ qua như mệt mỏi quá mức, không bình thường, đau phần trên ngực. Nên cẩn thận khi leo cầu thang, nếu cảm thấy quá mệt, cảm giác ngột thở và căng tức ở ngực, không nên chậm trễ cần đi khám ngay.

Cảm giác buồn nôn, nôn, đầy bụng khó tiêu

Cảm giác nặng bụng, khó chịu; đôi khi như ăn không tiêu và có cảm giác buồn nôn. Điều này rất dễ nhầm lẫn với triệu chứng của các bệnh khác hoặc trào ngược dạ dày. Đặc biệt thường kèm theo đổ mồ hôi lạnh,đột nhiên cảm thấy mệt mỏi, run, đau dạ dày và có cảm giác lo lắng.

Tóm lại phần lớn những cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim thường có dấu hiệu báo trước. Ở phụ nữ đừng bao giờ chủ quan, nếu thấy mệt mỏi ngày càng tăng, cảm thấy khó thở, lo lắng thì cần thăm khám bác sĩ.

Hãy chú ý lắng nghe cơ thể mình, dù là thay đổi nhỏ nhất và đó là cách hữu hiệu để bảo toàn được sức khoẻ và tính mạng của mình trước cơn nhồi máu cơ tim.

BS Ái Thủy (Theo Amelioretasante)

Nguồn:http://vietnamnet.vn/vn/suc-khoe/cac-loai-benh/nhung-trieu-chung-canh-bao-nhoi-mau-co-tim-

Nhồi Máu Cơ Tim Là Bệnh Gì?

Tác giả: Tố Quyên, Tham vấn y khoa: BS. Nguyễn Thường Hanh.

Tùy theo vị trí tắc mà mức độ tổn thương trầm trọng khác nhau. Các trường hợp bị tắc nhánh mạch máu nuôi nút tạo nhịp cho tim có thể làm người bệnh tử vong ngay lập tức vì rối loạn nhịp tim.

Nhồi máu cơ tim là bệnh gì?

Bệnh nhồi máu cơ tim là tên gọi y khoa của cơn đau tim cấp, đây là tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Bệnh xảy ra khi lượng máu nuôi tim bị cắt đứt đột ngột, làm chết tế bào cơ tim. Nguyên nhân là do một hoặc nhiều nhánh mạch vành bị tắc nghẽn. Tắc nghẽn có thể do việc hình thành cục máu đông khi mảng xơ vữa cấu tạo bởi chất béo bị boc tróc.

Tim cần được cung cấp máu và dinh dưỡng liên tục giống như bất kỳ mô cơ nào trong cơ thể. Hai nhánh động mạch vành lớn cung cấp oxy cho cơ tim. Nếu một trong các động mạch lớn hay các nhánh nhỏ bị tắc đột ngột thì một phần tim sẽ bị thiếu oxy, tình trạng này gọi là thiếu máu cơ tim.

Nếu thiếu máu cơ tim kéo dài quá lâu, mô cơ tim sẽ bị chết, gân nên cơn đau thắt ngực hay được gọi là nhồi máu cơ tim.

Cơn đau thắt ngực có thể kéo dài hàng giờ, vì vậy bạn không được quên tìm kiếm sự giúp đỡ nếu như nghĩ mình đang lên cơn đau tim. Trong vài trường hợp, bệnh có thể không có triệu chứng gì, nhưng hầu hết sẽ xuất hiện cơn đau ngực.

Những dấu hiệu và triệu chứng của bệnh nhồi máu cơ tim?

Những triệu chứng thường gặp của bệnh nhồi máu cơ tim bao gồm:

Đau thắt ngực;

Đau ngực lan lên hàm hoặc xuống lưng, cánh tay và bàn tay trái kéo dài nhiều phút hoặc biến mất rồi lại xuất hiện;

Khó thở;

Đổ mồ hôi;

Nôn ói;

Lo lắng;

Ho;

Chóng mặt;

Tim đập nhanh.

Điều quan trọng bạn cần nhớ là không phải tất cả mọi người bị đau tim đều trải qua cùng triệu chứng hay có mức độ đau như nhau. Đau ngực là triệu chứng thường gặp nhất cả nam lẫn nữ. Tuy nhiên, nữ giới thường hay gặp các triệu chứng sau đây hơn, bao gồm:

Khó thở;

Đau hàm;

Đau lưng;

Đau đầu, chóng mặt;

Buồn nôn;

Nôn ói.

Vài phụ nữ bị cơn đau tim có triệu chứng giống cảm cúm.

Bạn có thể gặp các triệu chứng khác không được đề cập. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về các dấu hiệu bệnh, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ.

Khi nào bạn cần gặp bác sĩ?

Nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nêu trên hoặc có bất kỳ câu hỏi nào, xin vui lòng tham khảo ý kiến bác sĩ. Cơ địa mỗi người là khác nhau. Vì vậy hãy hỏi ý kiến bác sĩ để lựa chọn được phương án thích hợp nhất.

Nguyên nhân nào gây ra bệnh nhồi máu cơ tim?

Tim là cơ quan chính của hệ tim mạch bên cạnh mạch máu. Một trong những mạch máu quan trọng là động mạch vành. Khi những động mạch này bị tắc hoặc hẹp do mảng xơ vữa hình thành, lưu lượng máu đến tim sẽ bị giảm đáng kể hoặc mất hoàn toàn, điều này có thể gây ra nhồi máu cơ tim. Những yếu tố dẫn tới tắc nghẽn động mạch vành bao gồm:

Cholestreol xấu: lipoprotein tỷ trọng thấp, là một trong những nguyên nhân chính gây tắc nghẽn động mạch. Cholesterol là một chất không màu tìm thấy trong thức ăn. Cơ thể cũng có thể tự tạo ra chất này. Không phải tất cả các cholesterol đều xấu nhưng lipoprotein tỷ trọng thấp có thể bám vào thành động mạch và gây ra mảng xơ vữa. Mảng xơ vữa làm tắc nghẽn dòng máu động mạch. Tiểu cầu có thể dính vào thành mạch nơi mảng xơ vữa bong tróc và tạo nên cục máu đông, cục máu đông lớn dần lên làm tắc nghẽn mạch máu hoàn toàn;

Chất béo bão hòa: cũng có thể thúc đẩy hình thành mảnh xơ vữa động mạch vành. Chất béo bão hòa được tìm thấy nhiều nhất trong thịt và các sản phẩm từ sữa bao gồm bơ và phô mai. Những chất béo này có thể làm tắc nghẽn động mạch bằng cách làm tăng lượng cholesterol xấu trong máu và làm giảm cholesterol tốt;

Chất béo chuyển hóa: hay còn gọi là chất béo đã được hydro hóa. Chất béo chuyển hóa được tạo ra bởi con người và có thể tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm chế biến sẵn. Chất béo chuyển hóa thường được ghi trên nhãn là chất béo đã được hydro hóa hoặc hydro hóa một phần.

Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ mắc bệnh nhồi máu cơ tim?

Có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh nhồi máu cơ tim như là:

Huyết áp cao: bạn sẽ có nhiều nguy cơ bị bệnh tim mạch nếu như đang bị cao huyết áp. Huyết áp bình thường phụ thuộc vào từng lứa tuổi, ở người trưởng thành là dưới 120/80 mmHg. Huyết áp càng cao thì nguy cơ mắc bệnh càng cao. Huyết áp cao sẽ làm tổn thương động mạch và thúc đẩy hình thành mảng xơ vữa;

Tăng cholesterol: cholesterol cao sẽ làm tăng nguy cơ bị bệnh nhồi máu cơ tim. Bạn có thể làm giảm lượng cholesterol bằng cách thay đổi chế độ ăn hoặc uống thuốc statin;

Tăng triglycerid: nồng độ triglycerid cao cũng làm tăng nguy cơ bị bệnh nhồi máu cơ tim. Triglycerid sẽ đi khắp cơ thể tới khi được dự trữ trong các tế bào mỡ. Tuy nhiên, vài triglycerid cũng có thể tồn đọng trong động mạch và thúc đẩy hình thành mảng xơ vữa;

Đái tháo đường: là tình trạng gây ra bởi lượng đường trong máu cao, làm tổn thương các mạch máu và cuối cùng dẫn đến bệnh mạch vành. Người đái tháo đường có nguy cơ cao bị bệnh động mạch vành;

Hút thuốc lá: làm tăng nguy cơ bệnh mạch vành. Bệnh cũng có thể dẫn đến các bệnh tim mạch khác;

Tuổi tác: nguy cơ mắc bệnh mạch vành sẽ tăng dần theo tuổi. Đàn ông có nguy cơ cao mắc bệnh này sau 45 tuổi và phụ nữ là sau 55 tuổi;

Bệnh sử gia đình: bạn sẽ dễ bị nhồi máu cơ tim hơn nếu như gia đình có người bị bệnh tim mạch sớm. Nguy cơ mắc bệnh sẽ đặc biệt cao nếu trong gia đình có thành viên nam bị bệnh nhồi máu cơ tim trước 55 tuổi hoặc thành viên nữ trước 65 tuổi.

Các yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim bao gồm:

Stress;

Ít vận động;

Dùng các thuốc không hợp pháp như cocaine và amphetamine;

Bệnh sử về tiền sản giật hoặc tăng huyết áp thai kỳ.

Điều trị nhồi máu cơ tim

Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ.

Những kỹ thuật y tế nào dùng để chẩn đoán bệnh nhồi máu cơ tim?

Các xét nghiệm chẩn đoán khác bao gồm:

Chụp động mạch vành để xác định đoạn nào bị tắc;

Siêu âm tim để xác định vùng cơ tim nào không hoạt động tốt.

Những phương pháp nào dùng để điều trị bệnh nhồi máu cơ tim?

Nhồi máu cơ tim cần được điều trị ngay lập tức, vì vậy hầu hết các trường hợp đều được điều trị ở phòng cấp cứu. Thủ thuật can thiệp mạch vành nhằm để làm thông động mạch, giúp cung cấp máu cho tim. Trong quá trình can thiệp mạch vành, phẫu thuật viên sẽ đưa ống catheter xuyên qua động mạch để đến chỗ tắc nghẽn rồi bung một bóng nhỏ được gắn với catheter nhằm tái thông mạch máu. Phẫu thuật viên cũng có thể đặt một ống lưới nhỏ stent ở nơi bị tắc, giúp phòng ngừa động mạch hẹp trở lại.

Trong vài trường hợp, bác sĩ có thể thực hiện phẫu thuật bắt cầu mạch vành bằng cách nối tĩnh mạch và động mạch sao cho máu lưu thông vòng quanh qua chỗ tắc. Phẫu thuật bắc cầu mạch vành thỉnh thoảng được làm ngay lập tức sau cơn nhồi máu cơ tim. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp phương pháp này được thực hiện vài ngày sau cơn đau tim để cho tim có thời gian tự lành.

Các thuốc khác dùng để điều trị nhồi máu cơ tim bao gồm:

Thuốc chống kết tập tiểu cầu như aspirin, được dùng để phá vỡ máu đông và tăng lưu lượng máu qua các động mạch bị hẹp;

Thuốc tiêu sợi huyết để làm li giải huyết khối;

Thuốc kháng tiểu cầu, như clopidogrel, dùng để ngăn ngừa hình thành các huyết khối mới và hạn chế các huyết khối đang tăng trưởng;

Nitroglycerin được dùng để làm giãn mạch vành;

Thuốc ức chế beta làm giảm huyết áp và cho cơ tim thư giãn giúp làm giảm độ nặng tổn thương;

Thuốc ức chế men chuyển được dùng để hạ áp và giảm stress cho tim;

Thuốc giảm đau để làm giảm đau ngực.

Những thói quen sinh hoạt nào giúp bạn hạn chế diễn tiến của bệnh nhồi máu cơ tim?

Bạn sẽ có thể kiểm soát bệnh này nếu áp dụng các biện pháp sau:

Dinh dưỡng: chế độ ăn uống lành mạnh bao gồm ngũ cốc, rau, trái cây, thịt nạc. Bạn cũng nên giảm các thực phẩm sau trong chế độ ăn, bao gồm: đường, chất béo bảo hòa, chất béo chuyển hóa, cholesterol. Dinh dưỡng đặc biệt quan trọng đối với người bị bệnh đái tháo đường, cao huyết áp và cholesterol cao;

Tập thể dục nhiều lần trong tuần sẽ giúp cải thiện sức khỏe tim mạch. Nếu bị nhồi máu cơ tim gần đây, bạn nên trao đổi với bác sĩ trước khi bắt đầu một kế hoạch tập thể dục;

Ngưng hút thuốc lá: đây cũng là điều quan trọng. Ngưng hút thuốc lá sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ cơn đau tim và cải thiện sức khỏe tim mạch và hô hấp. Bạn cũng nên tránh hút thuốc lá thụ động.

Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phương pháp hỗ trợ điều trị tốt nhất.

Nhồi máu cơ tim là bệnh nguy hiểm và có thể dẫn đến tử vong. Những trường hợp người bệnh còn sống sót nhưng không được can thiệp kịp thời thì một phần cơ tim sẽ bị chết và ảnh hưởng lâu dài đến chức năng co bóp của cơ tim.

Khi bệnh nhân nhồi máu cơ tim được đưa tới bệnh viện sớm, bệnh nhân có thể được chỉ định thuốc tiêu sợi huyết hoặc can thiệp thông tim đặt stent trong mạch vành, lúc này cơ tim được tái tưới máu và tế bào cơ tim được bảo tồn. Tuy nhiên, một số bệnh nhân bị đái tháo đường sẽ có hiện tượng hẹp tắc nhiều nhánh mạch vành và không thể can thiệp đặt stent. Lúc này bác sĩ sẽ chỉ định phẫu thuật bắc cầu mạch vành khi tình trạng nhồi máu cơ tim ổn định hơn.

Cho dù điều trị bằng phương pháp nào, sau cơn nhồi máu cơ tim, bệnh nhân đều được sử dụng nhiều loại thuốc hỗ trợ và ngăn ngừa cơn nhồi máu tái phát. Bạn hãy theo dõi kiểm tra sức khỏe thường xuyên và uống đủ thuốc theo toa bác sĩ để duy trì tình trạng bệnh tối ưu và phòng ngừa suy tim sau nhồi máu cơ tim.

Hello Bacsi không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa.

Nhồi Máu Cơ Tim Cấp Tính (Mi)

Nhồi máu cơ tim cấp là hoại tử cơ tim do tắc nghẽn động mạch vành. Triệu chứng bao gồm khó chịu ngực có hoặc không khó thở, buồn nôn, và mồ hôi. Chẩn đoán bằng điện tâm đồ và sự hiện diện hoặc không có dấu hiệu huyết thanh học. Điều trị là thuốc chống tiểu cầu, thuốc chống đông máu, nitrat, thuốc chẹn beta, statins, và liệu pháp tái tưới máu mạch vành. Đối với nhồi máu cơ tim ST chênh lên, sự hồi phục khẩn cấp là thông qua các thuốc tiêu sợi huyết, can thiệp qua da, hoặc, thỉnh thoảng cần phẫu thuật bắc cầu động mạch vành. Đối với NMCT không ST chênh lên, tái tưới máu là thông qua can thiệp qua da hoặc phẫu thuật bắc cầu động mạch vành.

Ở Mỹ, có khoảng 1,5 triệu trường hợp nhồi máu cơ tim xảy ra hàng năm. NMCT gây tử vong cho 400.000 đến 500.000 người, với khoảng một nửa số người chết trước khi họ đến bệnh viện (xem Ngừng tim).

Nhồi máu cơ tim cấp tính (MI), cùng với đau thắt ngực không ổn định, được coi là hội chứng mạch vành cấp. NMCT cấp tính bao gồm cả nhồi máu cơ tim không có ST chênh lên(NSTEMI) và nhồi máu cơ tim có ST chênh lên (STEMI). Phân biệt giữa NSTEMI và STEMI là rất quan trọng vì các chiến lược điều trị là khác nhau đối với hai bệnh này.

Nhồi máu cơ tim được định nghĩa là hoại tử cơ tim trong một bệnh cảnh lâm sàng phù hợp với thiếu máu cục cơ tim ( 1). Những điều kiện này có thể được thỏa mãn bởi sự gia tăng men tim (tốt nhất là men tim troponin [cTn]) trên 99 th phần trăm của giới hạn tham chiếu trên (URL) cộng với ít nhất một trong các cách sau:

Các tiêu chuẩn khác nhau được sử dụng để chẩn đoán NMCT trong và sau khi can thiệp động mạch vành hoặc phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành, và như nguyên nhân gây tử vong đột ngột.

NMCT cũng có thể được phân thành 5 loại dựa trên nguyên nhân và hoàn cảnh:

NMCT ảnh hưởng chủ yếu đến tâm thất trái (LV), nhưng tổn thương có thể lan tới tâm thất phải (RV) hoặc tâm nhĩ. Nhồi máu cơ tim thất phải thường là kết quả của tắc nghẽn động mạch vành phải hoặc động mạch mũ; nó được đặc trưng bởi áp lực làm đầy thất phải cao, thường có sự xuất hiện hở van ba lá nặng và giảm cung lượng tim. Nhồi máu cơ tim thành sau gây ra một số mức độ rối loạn chức năng thất phải ở khoảng một nửa số bệnh nhân và gây ra bất thường huyết động trong 10 đến 15%. Rối loạn chức năng thất phải nên được xem xét ở bất kỳ bệnh nhân nào bị nhồi máu cơ tim thành sau dưới và nâng cao áp lực tĩnh mạch cảnh trong với sốc hoặc tụt huyết áp. Nhồi máu cơ tim thất phải làm biến chứng nhồi máu thất trái tăng đáng kể nguy cơ tử vong.

Nhồi máu thành trước có xu hướng lớn hơn và dẫn đến tiên lượng xấu hơn so với nhồi máu cơ tim thành sau dưới. Chúng thường do tắc nghẽn động mạch vành trái, đặc biệt là ở động mạch liên thất trước; nhồi máu thành sau dưới phản ánh tắc động mạch vành phải hoặc tắc động mạch mũ ưu năng

Nhồi máu cơ tim không ST chênh lên (NSTEMI, MI dưới nội mạc) là hoại tử cơ tim (chứng minh bằng men tim trong máu; troponin I hoặc troponin T và CK sẽ được nâng cao) mà không có sự chênh lên đoạn ST cấp tính. ECG thay đổi như ST chênh xuống, đảo ngược T-sóng, hoặc cả hai có thể có mặt.

Nhồi máu cơ tim ST chênh lên (STEMI, MI xuyên thành) là hoại tử cơ tim có thay đổi ECG cho thấy đoạn ST chệnh lên và không đảo ngược bởi nitroglycerin. Men tim, troponin I hoặc troponin T, và CK tăng lên.

1. Thygesen K, Alpert JS, Jaffe AS, et al. Nhóm Viết cho Tổ chức Hỗn hợp ESC / ACCF / AHA / WHF về Định nghĩa toàn cầu về Nhồi máu cơ tim; Tài liệu Đồng thuận Chuyên gia ESC / ACCF / AHA / WHF Định nghĩa chung thứ ba về Nhồi máu cơ tim. Circulation 126:2020-2035, 2012. doi: 10.1161 / CIR.0b013e31826e1058

Các triệu chứng của NSTEMI và STEMI đều giống nhau. và ngày tới vài tuần trước biến cố ,khoảng vài phần ba số bệnh nhân trải qua các triệu chứng báo hiệu bao gồm đau thắt ngực không ổn định hoặc nhịp nhanh, thở dốc, và mệt mỏi.

Thông thường, triệu chứng đầu tiên của nhồi máu là đau ngực tức nặng , đau sâu sau xương ức, đau kiểu đau tạng được miêu tả là đau hoặc áp lực, thường xuyên phát ra ở lưng, hàm, cánh tay trái, cánh tay phải, vai, hoặc tất cả các khu vực này. Đau cũng tương tự như đau thắt ngực nhưng thường nghiêm trọng hơn và kéo dài; thường đi kèm với khó thở, vã mồ hôi, buồn nôn, và nôn; và giảm nhẹ hoặc chỉ tạm thời bằng cách nghỉ ngơi hoặc nitroglycerin. Tuy nhiên, khó chịu có thể nhẹ; khoảng 20% các bệnh nhồi cấp cấp tính là im lặng (tức là, không triệu chứng hoặc gây ra các triệu chứng mơ hồ không được bệnh nhân nhận ra là bệnh tật), thường thấy ở bệnh nhân tiểu đường. Bệnh nhân thường giải thích sự khó chịu của họ như khó tiêu, đặc biệt là vì sự giảm nhẹ tự nhiên có thể bị giả mạo do ăn mòn hoặc quá acid

Một số bệnh nhân có hiện tượng ngất.

Phụ nữ có nhiều khả năng xuất hiện đau ngực không điển hình. Bệnh nhân cao tuổi có thể có khó thở hơn đau ngực do thiếu máu cục bộ. Trong các trường hợp thiếu máu trầm trọng, bệnh nhân thường có đau đáng kể và cảm thấy bồn chồn và sợ hãi Buồn nôn và nôn có thể xảy ra, đặc biệt với NMCT thành dưới. Khó thở và suy nhược do suy giảm chức năng thất trái , phù phổi, sốc, loạn nhịp tim đáng kể có thể chiếm ưu thế.

Da có thể nhợt nhạt, lạnh, và vã mồ hôi. tím trung ương hoặc ngoại vi có thể xuất hiện. Mạch có thể yếu, và huyết áp có thể thay đổi, mặc dù nhiều bệnh nhân ban đầu có một số mức độ cao huyết áp trong đau đớn.

Âm thanh tim thường hơi xa; âm thanh tim 4 là hầu như phổi biến có thể xuất hiện tiếng thổi tâm thu nhẹ ở mỏn ( phản ánh rối loạn chứng năng cơ nhú ) có thể xảy ra. Trong lần kiểm tra ban đầu, một tiếng cọ hoặc những tiếng thổi mạnh gợi ý biến chứng nặng nề hoặc chẩn đoán khác. Phát hiện tiếng cọ màng tim trong vòng vài giờ sau khi xuất hiện các triệu chứng NMCT cho thấy viêm màng ngoài tim cấp tính hơn là NMCT. Tuy nhiên, tiếng cọ màng tim , thường là không rõ ràng, thường xảy ra vào ngày thứ 2 và thứ 3 sau NMCT ST chênh lên Đau thành ngực khi ấn xuất hiện khoảng 15% bệnh nhân.

Trong nhồi máu thất phải (RV), dấu hiệu bao gồm áp lực làm đầy RV, tĩnh mạch cổ giãn (thường với Dấu Kussmaul), nghe phổi trong, và hạ huyết áp.

Đánh giá bắt đầu với ECG ban đầu và nối tiếp và các xét nghiệm nối tiếp của men tim để giúp phân biệt giữa đau thắt ngực không ổn định, Nhồi máu cơ tim ST chênh lên, NMCT không ST chênh lên. Sự phân biệt này là trung tâm của con đường quyết định bởi vì các thuốc tiêu sợi huyết có lợi cho bệnh nhân STEMI nhưng có thể làm tăng nguy cơ cho những người có NSTEMI. Đồng thời, việc can thiệp khẩn cấp được chỉ định cho bệnh nhân STEMI cấp tính nhưng không nói chung đối với những người có NSTEMI.

ECG là kiểm tra quan trọng nhất và phải được thực hiện trong vòng 10 phút trình bày.

Các sóng bệnh lý Q không cần thiết để chẩn đoán. ECG phải được đọc cẩn thận vì độ cao của đoạn ST có thể tinh tế, đặc biệt là ở các đầu dây kém hơn (II, III, aVF); đôi khi sự chú ý của người đọc là nhầm lẫn tập trung vào sự chênh xuống của đoạn ST Nếu triệu chứng là đặc trưng, đoạn ST chênh lên trên ECG có độ đặc hiệu 90% và độ nhạy 45% khi chẩn đoán NMCT cấp Theo dõi hang loạt (thu được mỗi 8 giờ trong 1 ngày, sau đó mỗi ngày) thể hiện sự tiến triển dần dần theo hướng ổn định, trở về mô hình thông thường hơn hoặc sự phát triển của sóng Q bất thường trong một vài ngày có xu hướng xác nhận chẩn đoán.

Nếu nghi ngờ nhồi máu thất phải (RV), một ECG 15 đạo trình thường được ghi nhận; thêm các chuyển đạo được đặt tại V 4-6R, và, để phát hiện nhồi máu thành sau, V 8 và V 9.

Các dấu hiệu tim (dấu hiệu huyết thanh của tổn thương tế bào cơ tim) là các enzyme tim (ví dụ: CK-MB) và nội dung của tế bào (ví dụ troponin I, troponin T, myoglobin) được phóng thích vào máu sau khi hoại tử tế bào cơ tim. Dấu hiệu xuất hiện vào các thời điểm khác nhau sau khi bị thương và mức giảm ở các mức khác nhau. Độ nhạy và độ đặc hiệu của tổn thương tế bào cơ tim khác nhau đáng kể giữa các dấu hiệu này, nhưng troponin (cTn) là nhạy cảm nhất và cụ thể và hiện nay là dấu hiệu của sự lựa chọn. Gần đây, đã có một số xét nghiệm mới về nhịp tim của troponin tim (hs-cTn) cũng rất chính xác. Các xét nghiệm này có thể xác định mức Tn (T hoặc I) một cách đáng tin cậy từ 0,003 đến 0,006 ng / ml (3 đến 6 pg / ml); một số xét nghiệm nghiên cứu có thể đạt 0,001 ng / ml (1 pg / ml).

Các xét nghiệm cTn trước đây ít nhạy cảm hơn không có khả năng phát hiện ra tăng troponin T ngoại trừ những bệnh nhân bị rối loạn tim mạch cấp tính. Do đó một Tn “dương” (nghĩa là vượt quá giới hạn phát hiện) rất đặc hiệu. Tuy nhiên, các xét nghiệm hs-cTn mới có thể phát hiện một lượng nhỏ Tn ở nhiều người khỏe mạnh. Do đó, mức độ hs-cTn cần được tham chiếu đến phạm vi bình thường và được xác định là “cao” chỉ khi có trên 99% dân số tham chiếu Hơn nữa, mặc dù mức troponin tăng cao có nghĩa là tổn thương tế bào cơ tim, nhưng nó không cho biết nguyên nhân gây ra tổn thương (mặc dù bất kỳ sự tăng troponin nào cũng làm tăng nguy cơ dẫn đến kết quả bất lợi trong nhiều chứng rối loạn) Ngoài hội chứng mạch vành cấp tính (ACS), nhiều rối loạn về tim và không tim khác có thể làm tăng nồng độ hs-cTn (xem Bảng: Nguyên nhân tăng Troponin); không phải tất cả các mức độ hs-cTn tăng cao biểu hiện NMCT, và không phải là tất cả các kết quả hoại tử cơ tim từ một sự kiện hội chứng mạch vành cấp tính ngay cả khi nguyên nhân là thiếu máu cục bộ. Tuy nhiên, bằng cách phát hiện các xét nghiệm Tn, hs-cTn ở mức thấp hơn, cho phép xác định sớm NMCT hơn các xét nghiệm khác và đã thay các xét nghiệm đánh dấu tim khác ở nhiều trung tâm.

Bệnh nhân nghi ngờ bị nhồi máu cơ tim nên có mức hs-cTn khi nhập viện và 3 giờ sau (ở 0 và 6 giờ nếu sử dụng một bài kiểm tra chuẩn Tn).

Mức hs-cTn phải được giải thích dựa trên xác suất xác định bệnh tật trước khi thử nghiệm của bệnh nhân, ước tính trên lâm sàng dựa trên:

Chụp động mạch vành thường kết hợp chẩn đoán với can thiệp mạch vành (PCI-angioplasty, stent placement). Khi có thể, chụp động mạch vành khẩn cấp và PCI được thực hiện càng sớm càng tốt sau khi khởi phát NMCT cấp (PCI ban đầu). Ở nhiều trung tâm lơn, cách tiếp cận này làm giảm đáng kể tỷ lệ bệnh tật và tử vong và cải thiện các kết cục lâu dài. Thông thường, nhồi máu thực sự bị hủy bỏ khi thời gian từ đau đến PCI là ngắn (<3 đến 4 giờ).

Chụp động mạch được chụp nhanh cho bệnh nhân bị STEMI, bệnh nhân đau ngực liên tục bất kể liệu pháp trị liệu tối đa, và bệnh nhân có biến chứng (ví dụ như đánh dấu tim tăng lên, sốc tim, sốc phản ứng cấp tính, thất trái vách ngăn, loạn nhịp không ổn định). Bệnh nhân có NSTEMI không biến chứng có các triệu chứng đã được giải quyết thường phải trải qua chụp mạch trong vòng 24 đến 48 giờ đầu tiên nhập viện để phát hiện tổn thương có thể cần điều trị.

Sau khi đánh giá và điều trị ban đầu, chụp mạch vành có thể được sử dụng ở những bệnh nhân có hiện tượng thiếu máu cục bộ (ECG hay các triệu chứng), bất ổn định huyết động, tái nhịp nhanh thất và các bất thường khác gợi lại sự tái phát các sự kiện thiếu máu cục bộ. Một số chuyên gia cũng khuyên rằng chụp mạch phải được thực hiện trước khi xuất viện ở bệnh nhân STEMI với chứng thiếu máu do xơ vữa động dục gây ra trên hình ảnh căng thẳng hoặc một phân suất tống máu < 40%.

Nguy cơ toàn bộ nên được ước lượng thông qua các điểm nguy cơ lâm sàng chính thức (Huyết khối trong Nhồi máu cơ tim [TIMI] hoặc kết hợp các đặc điểm nguy cơ cao sau đây:

Đối với bệnh nhân được điều trị bằng tái tưới máu ĐMV (Tiêu sợi huyết hay PCI), tỷ lệ tử vong trong bệnh viện là từ 5 đến 6%, so với 15% đối với những bệnh nhân là đối tượng có thể tái tưới máu , nhưng không được điều trị tái tưới máu ĐMV Ở các trung tâm với các chương trình PCI đã được xác lập, tỉ lệ tử vong ở bệnh viện được báo cáo là <5%.

Phân loại Killip và tỷ lệ tử vong của Nhồi máu cơ tim cấp tính *

† Xác định trong khi bệnh nhân thở không khí phòng

Nguy cơ tử vong ở 30 ngày trong NMCT ST chênh lên

STEMI = NMCT ST chênh lên; TIMI = thang điểm TIMI trong NMCT

Rủi ro xảy ra biến cố * trong 14 ngày trong NMCT không ST chênh.

Các yếu tố nguy cơ bệnh ĐMV (phải có ≥ 3 cho 1 điểm):

CAD = bệnh động mạch vành; MI = nhồi máu cơ tim; NSTEMI = NMCT không ST chênh; TIMI = thang điểm TIMI

Chăm sóc trước nhập viện: oxy, aspirin, nitrates và / hoặc opioids để giảm đau, và điều trị tại trung tâm y tế thích hợp

Phải thiết lập một tuyến đường tĩnh mạch đáng tin cậy, cung cấp oxy (điển hình là 2 l bằng cannula mũi) và bắt đầu theo dõi ECG đơn. Can thiệp trước bệnh viện của nhân viên y tế khẩn cấp (bao gồm ECG, nhai aspirin [325 mg], quản lý đau (với nitrat hoặc opioid) có thể làm giảm nguy cơ tử vong và biến chứng. Chẩn đoán sớm và đáp ứng với điều trị có thể giúp xác định thời gian cần can thiệp revascularization.

Khi đến phòng cấp cứu, chẩn đoán của bệnh nhân được xác nhận. Liệu pháp dùng thuốc và thời gian can thiệp phụ thuộc vào hình ảnh lâm sàng và chẩn đoán.

Đối với NMCT ST chênh lên , chiến lược tái tưới máu có thể bao gồm điều trị bằng tiêu sợi huyết hoặc can thiệp ĐMV qua da ngay lập tức. Đối với bệnh nhân NMCT không ST chênh, chụp mạch có thể được thực hiện trong vòng 24 đến 48 giờ nhập viện nếu bệnh nhân ổn định lâm sàng. Nếu bệnh nhân không ổn định (ví dụ, đau ngực liên tục, hạ huyết áp hoặc rối loạn nhịp tim kéo dài), thì chụp hình mạch phải được thực hiện ngay lập tức (xem Hình: Tiếp cận với nhồi máu cơ tim cấp).

Thuốc chống đông máu: Heparin (không phân đoạn hoặc heparin trọng lượng phân tử thấp) hoặc biivalirudin

thuốc giảm đau thường là nitroglycerin

Tất cả các bệnh nhân đều được cho uống aspirin 160 đến 325 mg , nếu không có chống chỉ định, và 81 mg một lần / ngày vô thời hạn sau đó. Nhai liều đầu tiên trước khi nuốt nhanh chóng để tăng hấp thụ. Aspirin làm giảm nguy cơ tử vong ngắn hạn và dài hạn. Ở những bệnh nhân trải qua PCI, một liều nạp clopidogrel (300 đến 600 mg uống một lần), prasugrel (60 mg uống 1 lần ) hoặc ticagrelor (180 mg uống 1 lần) cải thiện kết cục, đặc biệt khi dùng 24 giờ trước. Đối với PCI khẩn cấp, prasugrel và ticagrelor khởi phát nhanh hơn và có thể được ưu tiên hơn.

Hoặc heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH), heparin không phân đoạn, hoặc biivalirudin thường được dùng cho bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định trừ khi bị chống chỉ định (ví dụ, do chảy máu có hoạt động). Heparin không phân đoạn phức tạp hơn vì nó đòi hỏi phải điều chỉnh liều lượng thường xuyên (mỗi 6 h) để đạt được mục tiêu chống đông qua (aPTT). Heparrin trọng lượng phân tử thấp có khả năng sinh khả dụng tốt hơn, được cho bởi liều đơn giản dựa trên liều mà không theo dõi liều lượng aPTT và liều lượng, và có nguy cơ giảm tiểu cầu do heparin thấp hơn. Bivalirudin được khuyến cáo cho những người có tiền sử heparin gây tiểu cầu đã biết hoặc nghi ngờ.

Xem xét chất ức chế glycoprotein IIb / IIIa cho bệnh nhân có nguy cơ cao (bệnh nhân thiếu máu cơ tim tái phát, thay đổi ECG động hoặc mất ổn định huyết động). Abciximab, tirofiban, và eptifibatide dường như có hiệu quả tương đương, và sự lựa chọn của thuốc nên phụ thuộc vào các yếu tố khác (ví dụ chi phí, tình trạng sẵn có, sự quen thuộc).

Đau ngực có thể điều trị bằng morphine hoặc nitroglycerin. Morphine 2 đến 4 mg IV, lặp lại sau 15 phút nếu cần, có hiệu quả cao nhưng có thể làm giảm hô hấp, có thể làm giảm sự co bóp cơ tim và là thuốc giãn mạch tĩnh mạch mạnh. Hạ huyết áp và nhịp tim chậm của morphine thường có thể được khắc phục bằng sự nâng lên của chi dưới. Nitroglycerin ban đầu được ngậm dưới lưỡi, tiếp theo là truyền tĩnh mạch liên tục nếu cần

Tiêu chuẩn điều trị cho tất cả các bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định bao gồm beta-blockers, thuốc ức chế ACE, và statin. Thuốc chẹn beta được khuyến cáo cho tất cả bệnh nhân trừ khi chống chỉ định (ví dụ như nhịp tim chậm, hạ huyết áp, hoặc hen suyễn), đặc biệt đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao. Thuốc chẹn beta làm giảm nhịp tim, áp lực động mạch và co bóp cơ tim , do đó làm sức làm việc cơ tim và làm giảm nhu cầu oxy của cơ tim. Thuốc ức chế men chuyên có thể cung cấp sự bảo vệ tim mạch dài hạn bằng cách cải thiện chức năng nội mạc. Nếu một thuốc ức chế ACE không dung nạp được vì ho hoặc phát ban (nhưng không phải là phù mạch hoặc rối loạn chức năng thận), thuốc chẹn thụ thể thụ thể angiotensin II có thể được thay thế. Statins cũng là phương pháp điều trị chuẩn và cần được tiếp tục vô thời hạn.

Các bệnh nhân NSTEMI không ổn định (ví dụ những người có triệu chứng đau ngực không giảm, hạ huyết áp, hoặc rối loạn nhịp tim nặng) nên tiến hành nên được chụp ĐMV ngày để xác định tổn thương để lập kế hoạch PCI hoặc CABG. Tái thông mạch vành ngay lập tức không đặt ra ở những bệnh nhân NSTEMI không biến chứng, trong trường hợp tắc hoàn toàn động mạch vành gây NMCT không phổ biến Những bệnh nhân này cần chụp mạch vành trong vòng 24 đến 48 giờ đầu tiên nhập viện để xác định tổn thương thành mạch đòi hỏi PCI hoặc CABG. Thuốc tiêu sợi huyết không được chỉ định cho NSTEMI. Rủi ro lớn hơn lợi ích khi dùng thuốc tiêu sợi huyết cho bệnh nhân NSTEMI

Đánh giá chức năng Sau NMCT

Nếu điện tâm đồ có thể giải thích được

Nếu điện tâm đồ không thể giải thích được

Khi xuất viện, tất cả bệnh nhân nên dùng các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu thích hợp, statin, thuốc giảm đau, và các thuốc khác trên cơ sở các bệnh kèm theo.