Uốn Ván Phát Bệnh Sau Bao Lâu / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Tiêm Phòng Uốn Ván Sau Chấn Thương Bao Lâu, Bao Nhiêu Tiền?

Chích ngừa uốn ván cho người bị vết thương hở, đạp đinh ần tiêm trong vòng 24h kể từ thời điểm bị thương, vacxin có tác dụng trong 6 tháng, bảo vệ được 5 năm với lịch tiêm bên dưới.

Uốn ván là bệnh gì, có nguy hiểm không?

Uốn ván là một bệnh cấp tính có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván (Clostridium tetani) gây ra. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào dòng máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh-cơ làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng đó, xuất hiện các cơn co giật. Cơn co giật thường xuất hiện khi có kích thích nhưng cũng có thể xuất hiện tự nhiên. Tùy theo mức độ nhiễm độc, vị trí vết thương, độ rộng vết thương cũng như điều kiện yếm khí tại vết thương, biểu hiện triệu chứng lâm sàng có thể là khu trú (uốn ván thể đầu, co giật một chi …) hay uốn ván toàn thể.

Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4-21 ngày, thường trong vòng 7-10 ngày. Bệnh nhân dễ bị tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim. Uốn ván sơ sinh là một trong những nguyên nhân gây chết hàng đầu ở một số nước đang phát triển thuộc châu Á, châu Phi và Nam Mỹ nhưng ở các nước phát triển thì đây là một bệnh thường gặp ở những người cao tuổi. Tỷ lệ tử vong của uốn ván tùy thuộc vào điều kiện hồi sức cấp cứu và điều trị sớm hay muộn, thông thường thì tỷ lệ chết rất cao, có thể từ 10 đến 80%. Xử trí điều trị bằng cách xẻ mở rộng vết thương, loại bỏ điều kiện yếm khí, dùng thuốc kháng sinh có hiệu lực cao để diệt vi khuẩn kết hợp với liệu pháp huyết thanh, chống co giật và hồi sức tốt.

Triệu chứng bệnh uốn ván dễ nhận biết nhất

Thời gian ủ bệnh thường trong khoảng 3 đến 10 ngày nhưng cũng có thể tới 3 tuần. Các triệu chứng bắt đầu xuất hiện khoảng một tuần sau khi bị nhiễm trùng với các biểu hiện điển hình như:

Đau đầu

Cứng bắp thịt, bắt đầu từ trong xương hàm, sau đó đến cổ và cánh tay, chân, hoặc bụng

Khó nuốt

Bồn chồn và khó chịu

Đau họng

Đổ mồ hôi và sốt

Đánh trống ngực, cao hoặc thấp huyết áp

Co thắt cơ ở mặt

Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh nhân uốn ván rất dễ tử vong do ngạt thở.

Tại sao phải tiêm phòng uốn ván khi bị vết thương hở?

Khi bị một vết thương làm trầy xước hoặc rách hở da thì ở tại chỗ bị thương tổn trực khuẩn uốn ván từ môi trường bị nhiễm bẩn chung quanh có thể xâm nhập vào và gây bệnh. Vì vậy khi bị vết thương, cần tiêm phòng uốn ván để chủ động bảo vệ an toàn, ngăn ngừa trước những hậu quả nặng nề có thể xảy ra làm thiệt hại đến tính mạng. Trong trường hợp khẩn cấp này, tiêm phòng không sử dụng vaccin uốn ván mà sử dụng loại globulin miễn dịch uốn ván.

Ngoài ra còn có loại Globulin miễn dịch uốn ván được chế tạo từ huyết tương người để tiêm tĩnh mạch, sản phẩm này được dùng để điều trị bệnh uốn ván. Liều lượng sử dụng tùy thuộc mức độ bệnh nặng, bệnh nhẹ trên lâm sàng; có thể dùng 4.000 đến 20.000 IU tiêm bắp thịt hoặc tiêm tĩnh mạch. Ống Globulin miễn dịch uốn ván có nồng độ pha loãng 6% chứa 4.000 IU.

Tiêm phòng uốn ván trong vòng mấy giờ?

Người bị vết thương có nguy cơ bị uốn ván nên sát khuẩn và đến ngay cơ sở y tế gần nhất (Trung tâm y tế quận, huyện/ trạm y tế phường, xã…) để được tiêm ngừa càng sớm càng tốt. Tiêm ngừa uốn ván, tác dụng tốt nhất là trong vòng 24g.

Trường hợp trễ, sau 24 giờ thì vẫn nên chích ngừa. Tuy trễ nhưng thuốc vẫn có tác dụng phòng ngừa, vì rõ ràng”có còn hơn không”.

Tiêm phòng uốn ván mấy mũi?

– Phác đồ tiêm ngừa với người có vết thương nhưng chưa từng chích uốn ván như sau:

Lần 1: Chích 2 mũi 1 lúc: Mũi thứ nhất – huyết thanh uốn ván Tetanus 1500DV (75.000 đồng) chích trong vòng 24 tiếng kể từ khi bị trầy xước.

Mũi thứ hai – VAT (vác xin uốn ván – 60.000 – 70.000 đồng) chích cùng lúc với mũi thứ nhất. (Huyết thanh hơn 10 ngày hết tác dụng. Nếu không chích huyết thanh chỉ chích ngừa vác xin, nửa tháng sau mới tạo kháng thể mới ngừa được bệnh. Do đó, mũi đầu tiên luôn là chích huyết thanh để phòng bệnh tức thì, nhưng hiệu quả ngắn nên phải chích mũi vắc xin).

Lần 2: Mũi thứ 3, chích sau đó 1 thángLần 3: Mũi thứ 4 chích sau đó 6 tháng Mũi thứ 5, chích sau đó 12 tháng.

Như thế vừa có tác dụng ngăn ngừa không bị uốn ván từ vết thương vừa có tác dụng phòng ngừa được 5 năm.

* Nếu chích đủ 5 lần, lần sau có vết thương chỉ cần chích ngừa nhắc lại 1 lần.

Tiêm phòng uốn ván có tác dụng trong bao lâu?

Đối tượng này được tiêm miễn dịch 03 liều trong vòng 6 tháng, bảo vệ được 5 năm.

Cứ sau 5 – 10 năm tiêm nhắc lại 01 liều sẽ bảo vệ phòng bệnh uốn ván suốt đời.

tu khoa

tiêm phòng uốn ván trong vòng mấy giờ

tiêm phòng uốn ván có tác dụng trong bao lâu

tiêm phòng uốn ván sau chấn thương

tiêm phòng uốn ván bao nhiêu tiền năm 2017

chích ngừa uốn ván rồi có cần chích lại không

tiêm phòng uốn ván trong vòng mấy giờ

tiêm uốn ván có hại không

Uốn Ván Và Triệu Chứng Của Bệnh Uốn Ván

Bệnh uốn ván là một nhiễm khuẩn nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao, đặc trưng bởi tăng trương lực cơ và các cơn co cứng, gây ra bởi một độc tố protein mạnh là tetanospasmin do Clostridium tetani tiết ra.

Bệnh uốn ván xuất hiện rải rác ở các vùng nông thôn; ở các nước không có Chương trình tiêm chủng mở rộng thì bệnh ở trẻ sơ sinh và người trẻ tuổi chiếm tỷ lệ cao. Bệnh uốn ván thường xảy ra sau một tổn thương cấp tính như vết chích da, vết rách da, vết trầy da, bỏng, viêm tai giữa, phẫu thuật, sảy thai, sinh đẻ…

Khi mắc bệnh uốn ván tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90% . Đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật.

Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4 – 21 ngày. Tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.

Những vết thương trên cơ thể cần được xử trí đúng cách để tránh vi khuẩn xâm nhập và gây hại lâu dài – Ảnh: Shutterstock

Tại Bệnh viện (BV) Bệnh nhiệt đới T.Ư các tuần gần đây liên tục tiếp nhận các ca bệnh uốn ván nhập viện. Nhiều trường hợp mắc uốn ván với nguyên nhân ban đầu hết sức đơn giản.

Trước khi nhập viện 20 ngày, ông Trần Văn D. (45 tuổi, ở Quế Võ, Bắc Ninh) không may bị gạch rơi vào chân. Ông D. đã tự rửa và băng bó vết thương nhưng không tiêm phòng uốn ván. Khoảng 3 ngày trước khi vào viện, ông D. bị cứng hàm, khó há miệng, tiến triển tăng dần thành co cứng cơ toàn thân. Bệnh nhân có biểu hiện đau cổ, gáy…; đến khám tại BV Tai mũi họng T.Ư, ông được chẩn đoán mắc uốn ván và chuyển điều trị tại BV Bệnh nhiệt đới.

Trước bệnh nhân D., một trường hợp khác nhập viện do uốn ván là bệnh nhân Trương Thị A. (52 tuổi, ở Duy Tiên, Hà Nam). Khoảng 2 tuần trước nhập viện, ở nhà bà A. giẫm phải cọc tre, xuyên vào mu bàn chân. Bà đã tự rửa và băng bó vết thương, không tiêm phòng uốn ván. Một tuần sau tai nạn, bà A. thấy cứng hàm, khó há miệng nên vào BV huyện điều trị. Sau 3 ngày bệnh tăng nặng, co giật nhiều cơn. Bệnh nhân được chuyển lên BV Bệnh nhiệt đới T.Ư trong tình trạng co cứng cơ toàn thân, co giật. Do bị co cứng các cơ hô hấp không thở được, bệnh nhân phải mở khí quản, thở máy. “Bệnh nhân mắc uốn ván có thể tử vong do suy hô hấp bởi tình trạng co cứng các cơ hô hấp”, bác sĩ Nguyễn Trung Cấp, Phó trưởng khoa Cấp cứu, BV Bệnh nhiệt đới T.Ư lưu ý.

Theo bác sĩ điều trị, hầu hết các trường hợp nhập viện đều bị các vết thương do tai nạn sinh hoạt (cành tre đâm bàn chân, tay, đâm vào trán; vết thương do mảnh sành, do gạch, ngói), sau đó tự xử trí bằng rửa nước và băng bó, không tiêm phòng uốn ván.

Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp cho biết vi khuẩn gây uốn ván có ở mọi nơi trong đất, trong chất thải của súc vật (phân trâu, bò, ngựa). Khi lao động trong các môi trường này, vi khuẩn uốn ván dễ dàng xâm nhập vào các vết thương xây xước gây bệnh. Khi cắt sửa móng tay, chân kẽ móng cắt sâu gây vết thương bị giắt bẩn bùn, đất cũng là nguy cơ cho uốn ván xâm nhập.

Trong môi trường tự nhiên, vi khuẩn uốn ván tồn tại dưới dạng nha bào (có lớp vỏ bao bọc bên ngoài) rất bền vững. Nha bào uốn ván có thể tồn tại nhiều năm trong môi trường, chỉ bị tiêu diệt trong nước sôi 30 phút, trong môi trường dung dịch sát khuẩn 20 phút. Khi lọt được vào trong vết thương yếm khí (vết thương bị dập nát dính cát bẩn, không có không khí, vết thương bị băng bó chặt, bó lá…), nha bào thoát vỏ thành vi khuẩn, tiết độc tố uốn ván. Các độc tố này sẽ xâm nhập vào cơ thể, đi vào hệ thần kinh và gây ra co cứng cơ hoặc co giật cơ khi có kích thích, rất nguy hiểm.

Một trong các biện pháp điều trị và dự phòng uốn ván đó là tiêm phòng vắc xin uốn ván. Chi phí tiêm vắc xin cho phòng uốn ván không đắt, và hiệu quả cao. Nếu mắc uốn ván, việc điều trị lâu dài và tốn kém, chi phí từ vài chục triệu đến cả trăm triệu đồng. Với bệnh nhân Trương Thị A. nói trên, bệnh phục hồi sau 38 ngày điều trị, chi phí gần 90 triệu đồng.

Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp nhận xét, tại BV các ca bệnh uốn ván hiện thường gặp ở người lớn vì đó là những trường hợp chưa tiêm vắc xin uốn ván, hoặc việc tiêm vắc xin lâu năm đã giảm khả năng bảo vệ.

Lâu nay, vắc xin uốn ván được tiêm cho bà mẹ mang thai; sau sinh trẻ vẫn được tiêm phòng uốn ván, vì vậy hiếm gặp uốn ván ở sản phụ và trẻ nhỏ. Nhưng về lâu dài, tác dụng của vắc xin có thể giảm ở người lớn; cần đến các cơ sở y tế để được hướng dẫn tiêm phòng.

Khi bị thương ngoài da, bạn cần vệ sinh và chăm sóc vết thương đúng cách, phòng chống uốn ván:

– Rửa ngay với nước sạch để trôi chất bẩn

– Rửa lại vết thương bằng nước ô xy già từ 3 – 4 lần

– Sát trùng bằng cồn i ốt tại vết thương và quanh vết thương

– Băng vết thương lại (phủ trên gạc) và đến cơ sở y tế gần nhất

– Không tự ý đắp, bôi hoặc bó bất cứ thứ gì khác lên vết thương.

Bệnh khởi phát sau chấn thương, trung bình là 7 ngày; 15% số trường hợp khởi phát bệnh trong vòng 3 ngày và 10% khởi phát bệnh sau 14 ngày. Uốn ván toàn thân là thể bệnh hay gặp nhất. Dấu hiệu điển hình là tăng trương lực cơ và co cứng toàn thân. Lúc đầu tăng trương lực cơ ở các cơ nhai, nuốt khó và cứng hay đau các cơ cổ, vai, lưng. Kế tiếp các cơ khác cũng bị tăng trương lực gây ra cứng bụng và cứng các cơ ở gốc chi; do co cứng liên tục các cơ mặt, tạo ra một vẻ mặt nhăn nhó hay kiểu cười khẩy, cười nhăn, co cứng cơ lưng tạo ra một tư thế lưng cong ưỡn lưng.

Ở một số bệnh nhân xuất hiện các cơn co cứng toàn thân kịch phát, với cường độ mạnh, những cơn đau làm cho bệnh nhân xanh tím và đe dọa ngừng thở. Các cơn này có thể lặp đi lặp lại, có thể là tự phát hoặc do kích thích dù là rất nhẹ. Ở mức độ nhẹ, bệnh nhân chỉ bị tình trạng cứng cơ và có một vài cơn co cứng hoặc không có cơn co cứng nào. Thể vừa có dấu hiệu cứng hàm, khó nuốt, cứng cơ và các cơn co cứng. Trường hợp nặng, bệnh nhân bị nhiều cơn kịch phát, có thể bị sốt (phần lớn không sốt). Các phản xạ gân sâu tăng. Nuốt khó hoặc chướng bụng làm cho bệnh nhân ăn uống khó khăn.

Rối loạn hệ thần kinh thực vật như huyết áp tăng thất thường, hay thường xuyên; nhịp tim nhanh, loạn nhịp tim; sốt cao, vã mồ hôi. Một số biến chứng về tim mạch có thể gặp là hạ huyết áp và chậm nhịp tim, đôi khi xuất hiện ngừng tim đột ngột. Những biến chứng khác là viêm phổi, gãy xương, vỡ cơ, loét do nằm và ly giải cơ vân.

Uốn ván ở trẻ sơ sinh, thường khởi phát trong 2 tuần đầu sau khi sinh với các dấu hiệu: trẻ bỏ bú, cứng cơ và các cơn co cứng; thường là uốn ván toàn thân và dễ dẫn đến tử vong nếu không điều trị.

Uốn ván cục bộ ít gặp, biểu hiện chỉ giới hạn ở các cơ gần vết thương, đây là thể nhẹ, tiên lượng tốt. Uốn ván đầu là một hình thái hiếm gặp của uốn ván cục bộ, diễn ra sau chấn thương đầu hay nhiễm khuẩn tai. Các triệu chứng gồm cứng hàm, rối loạn chức năng một hoặc nhiều dây thần kinh sọ, thường gặp là dây số 7, tỷ lệ tử vong cao.

Nguyên nhân gây bệnh uốn ván

Do bị trầy xát và viết thương tiếp xúc trực tiếp với trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani có trong đất, cát bụi, phân trâu bò ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ …, xâm nhập vào các vết thương, vết xây xước phát triển thành ổ nhiễm trùng gây bệnh uốn ván .

Nh ững ng ười có nguy c ơ m ắc cao :

– Người làm việc ở các trang trại, các nông trường chăn nuôi gia súc và gia cầm

– Người dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại.

– Công nhân xây dựng các công trình.

– Bộ đội và thanh niên xung phong.

Đặc điểm của vi khuẩn gây bệnh:

Vi khuẩn C.tetani là trực khuẩn gram dương, di động, kỵ khí, có hình bầu dục, không có màu, nha bào có mặt ở khắp nơi trên thế giới: trong đất, môi trường kỵ khí, phân súc vật, phân người. Nha bào có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nhưng khi ở dạng các tế bào thực vật, chúng dễ dàng bị khử hoạt tính và nhạy cảm với nhiều kháng sinh như: metronidazol, penicillin…

Nguyên tắc điều trị là diệt trừ vi khuẩn, trung hòa độc tố, ngăn ngừa các cơn co cứng cơ, theo dõi và xử trí hỗ trợ hô hấp. Bệnh nhân phải được chăm sóc trong một căn phòng yên tĩnh để giám sát và theo dõi tim, phổi thường xuyên, hạn chế mọi sự kích thích. Duy trì và bảo vệ đường thở. Xử lý vết thương sạch sẽ, loại bỏ triệt để các dị vật.

– Dùng kháng sinh: tiêu diệt tận gốc tế bào thực vật là nguồn sản sinh ra độc tố. Có thể dùng một trong các thuốc như sau: penicillin 10 – 12 triệu đơn vị tiêm mỗi ngày x 10 ngày; metronidazol 500mg mỗi 6 giờ hay 1g mỗi 12 giờ; dùng clindamycin, erythromycin. Đồng thời phải điều trị đặc hiệu với nhiễm khuẩn do các vi khuẩn khác gây ra.

– Dùng kháng độc tố uốn ván : để vô hiệu hóa độc tố lưu hành trong máu và độc tố ở vết thương nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong; kịp thời dùng globulin miễn dịch uốn ván của người. Tốt nhất là nên tiêm kháng độc tố trước khi điều trị vết thương.

– Kiểm soát các cơn co cứng: Dùng một hay phối hợp các thuốc sau đây: diazepam được sử dụng phổ biến: lorazepam, barbiturat, chlorpromazin. Thuốc phong bế thần kinh cơ kết hợp với thở máy để điều trị các cơn co cứng không đáp ứng với thuốc hoặc các cơn co cứng đe dọa ngừng thở.

– Điều trị hỗ trợ: Mở khí quản có thể kết hợp hoặc không kết hợp với thở máy; bù nước và điện giải; tăng cường dinh dưỡng bằng truyền dịch hoặc cho ăn qua ống thông vào dạ dày; vật lý trị liệu để đề phòng cứng cơ; dùng heparin và các chất kháng đông khác để đề phòng tắc mạch phổi; theo dõi chức năng của thận, bàng quang và ruột; phòng chống chảy máu và loét đường tiêu hóa.

– Dùng vaccin gây miễn dịch chủ động: Tất cả bệnh nhân phải được tiêm vaccin sau khi bệnh đã phục hồi.

CÁCH XỬ TRÍ VẾT THƯƠNG BỊ NHIỄM TRÙNG

Bất kỳ vết thương xuyên qua da nào cũng có thể gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng xảy ra do mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, hoặc qua vật gây ra vết thương (ví dụ như một con dao bẩn) hoặc từ những nguồn khác sau khi gây ra vết thương. Vết cắn, vết cắt, vết đâm chích, vết bỏng và những chỗ nứt, gãy hở đều có thể mang đến nguy cơ nhiễm trùng. Bất kỳ vết thương xuyên qua da nào cũng có thể gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng xảy ra do mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, hoặc qua vật gây ra vết thương (ví dụ như một con dao bẩn) hoặc từ những nguồn khác sau khi gây ra vết thương. Vết cắn, vết cắt, vết đâm chích, vết bỏng và những chỗ nứt, gãy hở đều có thể mang đến nguy cơ nhiễm trùng.

Có nhiều điều bạn có thể thực hiện để giảm nguy cơ nhiễm trùng.

Vi khuẩn uốn ván vào cơ thể như thế nào?

Uốn ván là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván có tên khoa học là Clostridium tetani gây ra. Ở dạng nha bào, vi khuẩn có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nha bào uốn ván có trong đất, cát bụi, phân trâu, bò, ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt khuẩn kỹ, sắt thép gỉ… Nha bào uốn ván xâm nhập vào cơ thể qua vết thương, sau đó thoát nha bào thành thể hoạt động, giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền co cứng đó xuất hiện các cơn co giật. Bệnh nhân bị tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim. Uốn ván có tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90%, đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%.

Những người có nguy cơ mắc bệnh là: người lao động nông nghiệp, làm việc ở các trang trại, các nông lâm trường, chăn nuôi gia súc và gia cầm, dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại, công nhân xây dựng…

Uốn ván là bệnh nguy hiểm dễ gây tử vong, nên mọi người cần cảnh giác phòng tránh bệnh. Phụ nữ mang thai cần tiêm vaccin phòng bệnh uốn ván để phòng uốn ván khi sinh. Khi bị vết thương, đặc biệt vết thương bẩn cần xử lý đúng cách, rửa vết thương bằng nước sạch để trôi chất bẩn; rửa lại vết thương bằng nước ôxy già từ 3 – 4 lần; sát trùng bằng cồn iod tại vết thương và quanh vết thương; dùng băng vô khuẩn để băng vết thương, sau đó đến cơ sở y tế gần nhất để khám và tiêm phòng uốn ván.

Bệnh Uốn Ván Và Cách Phòng Ngừa Uốn Ván

Hai con của tôi đã được tiêm chủng hồi vòn nhỏ (tiêm chủng 6 loại vaccin) trong đó dường như đã có chủng ngừa uốn ván (tê ta nốt) . như vậy việc chủng ngừa đó đến bây giờ có còn tác dụng không? nếu còn thì nếu có trầy sướt, hoặc thị thương thì có cần phải tiêm chủng ngay sau khi bị thương không?. Đó là trường hợp chủng ngừa khi còn nhỏ, còn trường hợp không chủng ngừa uốn ván hồi còn nhỏ, thì bây giờ nếu bị thương thì tất nhiên là phải chích ngừa, thế nhưng nếu sau đó lại bị thương nữa, thì lần sau có cần phải chích ngừa nữa không? Xin cảm ơn và kính chào quý vi.

Trả lời: Bệnh uốn ván là gìBệnh uốn ván là bệnh gây nên do trực khuẩn gram (-) có tên là Clostridum tetani, bệnh xuất hiện do vết thương bị nhiễm nha bào uốn ván. Trong cơ thể, nha bào phát triển thành vi khuẩn và sinh sản ra chất độc (độc tố).

Điều kiện yếm khí thúc đẩy vi khuẩn phát triển, vì thế với những vết thương có nhiều nguy cơ có nha bào uốn ván như vết thương do vật bằng sắt thép gỉ, vết thương bẩn, có tiếp xúc với đất cát (vì chủ yếu nha bào có nhiều trong đất và phân) thì sau khi làm sạch, nếu băng kín vết thương sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn uốn ván phát triển.Độc tố uốn ván xâm nhập vào các sợi thần kinh ngoại vi của hệ thần kinh trung ương. Tại đây, nó ức chế sự giải phóng các chất ức chế thần kinh như glycin, GABA gây nênn các triệu chứng co cứng cơ, co giật do tăng trương lực cơ, liệt cứng và bệnh nhân có thể chết do suy hô hấp.

Miễn dịch trong bệnh uốn vánLịch sử tiêm uốn ván rất quan trong trong việc xử lý các vết thương và phòng bệnh uốn ván.

Lịch tiêm văcxin uốn ván như sau:

1/ Văcxin Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván (DPT) được tiêm tổng cộng 5 liều như sau:Vào lúc 2 tháng tuổi; 4 tháng tuổi; 6 tháng tuổi; 15 – 18 tháng tuổi và 4 – 6 tuổi. Nên tiêm cho trẻ dưới 7 tuổi.

2/ Td (Giải độc tố uốn ván cùng với giải độc tố bạch hầu liều thấp) nên tiêm cho người trên 7 tuổi như sau:Tiêm vào 14- 16 tuổi, cứ sau 10 năm tiêm nhắc lại một lần.Tiêm ngừa uốn ván thế nào khi có vết thương

3.1. Nếu vết thương sạch, nhỏ, trong vòng 6 giờ và sâu không dưới 1cm, không bẩn:– Nếu không chắc chắn hoặc tiêm chưa đầy đủ (nhỏ hơn 3 liều) (1): Chỉ dùng Td.– Tiêm đầy đủ (3 hoặc hơn 3 liều) và mới tiêm (2): Không tiêm gì cả, để hở vết thương.– Tiêm đầy đủ nhưng trong vòng 5 năm đến 10 năm kể từ lần tiêm gần nhất (3): không tiêm gì cả, chỉ để hở vết thương.– Tiêm đầy đủ, nhưng lần tiêm gần nhất cách đây 10 năm (4): tiêm Td.

3.2. Nếu vết thương có đất, nước bọt, phân, vết thương xuyên thủng, nát, bị cắn, trên 6 giờ, sâu trên 1cm .

– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (1): Tiêm Td và TIG ở hai vị trí khác nhau.– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (2): Không dùng gì cả. – Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (3): Chỉ dùng Td– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (4): Chỉ dùng Td

Ghi chú:

– Td là giải độc tố uốn ván cùng với giải độc tố bạch hầu liều thấp.

– TIG là globulin miễn dịch chống uốn ván, tạo ra miễn dịch thụ động chống độc tố uốn ván.

– Khi tiêm Td và TIG nên tiêm ở hai vị trí khác nhau, nếu không globulin miễn dịch sẽ gắn với giải độc tố và cả hai mất tác dụng.

Hy vọng thông tin cung cấp sẽ giúp ích cho bạn.

Lưu ý: Chữa bệnh theo chỉ định của Bác sĩ

Bệnh Uốn Ván Là Gì? Những Cách Phòng Ngừa Bệnh Uốn Ván

Chắc chắn đâu đó chúng ta đã nghe tới cái tên căn bệnh uốn ván rồi đi tiêm chủng uốn ván và đây là căn bệnh có tỷ lệ tử vong rất cao. Tuy nhiên, rất ít người hiểu rõ về bệnh uốn ván là gì, cách phòng ngừa ra sao.

Bệnh uốn ván là loại bệnh cấp tính do cơ thể bị nhiễm ngoại độc tố tetanus exotoxin từ vi khuẩn uốn ván có tên là Clostridium tetani gây ra. Loại vi khuẩn này tiết ra chất độc gây tổn thương thần kinh, dẫn tới các cơ bắp bị tê liệt, cứng. Bệnh có tỷ lệ tử vong rất cao, không nhanh chóng điều trị thì cơ hô hấp sẽ ngưng hoạt động, dẫn tới nguy kịch và tử vong.

Do bệnh có tỷ lệ tử vong cao nên mọi người cần có những cách ngăn ngừa để hạn chế việc mắc phải bệnh uốn ván.

Cách ngăn ngừa bệnh uốn ván hiệu quả nhất chính là mọi người từ trẻ nhỏ tới người lớn đều cần chủ động tiêm vắc xin uốn ván sớm và đầy đủ. Đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh.

Ngày nay, vắc – xin uốn ván đã được bào chế dưới dạng phối kết hợp với các loại vắc – xin khác nên rất tiện lợi cho mẹ trong việc đưa bé đi tiêm ngừa, phòng bệnh.

Lịch tiêm chủng uốn ván hiện nay ở nước ta như sau:

Uốn ván sơ sinh: phụ nữ mang thai sẽ được gây miễn dịch cơ bản bằng 2 liều giải độc tố uốn ván – tetanus toxoid: TT, cách nhau tối thiểu 1 tháng, liều thứ 2 tiêm trước khi sinh 1 tháng. Những lần mang thai sau, trước khi sinh 1 tháng cần tiêm nhắc lại 1 liều TT.

Đối với trẻ em dưới 1 tuổi: trẻ em vào lúc 2, 3, 4 tháng tuổi sẽ được gây miễn dịch cơ bản với 3 liều vắc – xin phối hợp bạch hầu – ho gà – uốn ván (DPT).

Và để duy trì khả năng miễn dịch, phòng ngừa trước căn bệnh uốn ván thì cứ 10 năm lại tiêm nhắc lại một lần TT, bởi vắc – xin không tạo miễn dịch bền vững trọn đời.

Khi bị thương, có nguy cơ bị mắc bệnh cần tiền hành tiêm phòng ngừa luôn. Phụ thuộc vào lịch sử tiêm và độ tổn thương mà áp dụng lượng tiêm phù hợp:

Với những người đã được tiêm TT đầy đủ, vết thương nhẹ, không bị nhiễm bẩn, đồng thời, lần tiên TT cuối cùng cách đó hơn 10 năm thì cần tiêm nhắc lại 1 mũi. Đối với vết thương nặng, bị nhiễm bẩn, chưa được tiêm TT trong vòng 5 năm trước đó thì cần tiêm ngay 1 liều trong ngày bị thương.

Trường hợp người bị thương chưa được gây miễn dịch cơ bản đầy đủ thì cần tiêm 1 liều TT càng sớm càng tốt sau khi bị thương. Những vết thương nặng, bị nhiễm bẩn thì cần bổ sung thêm mũi tiêm globulin miễn dịch uốn ván (TIG).

Trong trường hợp không rõ tiền sử tiêm phòng, lại bị thương nặng thì cần tiêm TIG với liều thấp nhất là 250 IU.

Hi vọng thông qua bài viết này, bạn sẽ có được những kiến thức bổ ích chăm lo cho sức khỏe của bản thân và các thành viên gia đình mình