Uốn Ván Là Bệnh J / Top 11 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Zqnx.edu.vn

Uốn Ván Là Gì? Cách Nhận Biết Bệnh Uốn Ván

Uốn ván là gì? Bệnh còn có tên gọi khác là phong đòn gánh do vi khuẩn uốn ván gây nên. Vi khuẩn uốn ván gây ra nhiều tổn hại đến hệ thần kinh và được tìm thấy khắp ở mọi nơi. Các bạn cần tìm hiểu qua những dấu hiệu nhận biết bệnh cùng cách thức điều trị hiệu quả để bảo vệ sức khỏe an toàn.

Bệnh uốn ván là gì?

Như đã nhắc đến ở trên thì bệnh uốn ván chính là do một loại vi khuẩn uốn ván với tên gọi Clostridium tetani gây nên. Loại vi khuẩn này có nhiều trong đất và hầu như nơi đâu cũng xuất hiện, các bạn nên cẩn thận để không bị nhiễm phải. Khi nhiễm vi khuẩn uốn ván hệ thần kinh sẽ bị tổn thương khiến các cơ bắp dần bị tê liệt và có thể dẫn đến tử vong.

Chính vì thế mỗi người nên cẩn thận tìm hiểu qua các triệu chứng uốn ván để nhanh chóng khắc phục khi mắc phải.

Dấu hiệu nhận biết bệnh uốn ván

Bệnh uốn ván là loại bệnh nguy hiểm mọi người cần phải đề phòng, một số dấu hiệu dễ nhận thấy khi bị nhiễm vi khuẩn uốn ván như:

Toàn cơ thể bị căng cứng do các cơ bị tê liệt khó hoạt động được.

Trong vòng 7 ngày kể từ khi bị vi khuẩn uốn ván xâm nhập bệnh nhân dễ bị co giật đau đớn thường xuyên.

Các cơ chủ yếu như cơ lưng, vai, cổ, bụng, tay, đùi đều bị ảnh hưởng gây đau nhức và căng cứng.

Trường hợp bệnh nặng vi khuẩn xâm nhập sâu và lan nhanh có thể khiến bệnh nhân ngừng thở.

Một số trường hợp bị nhiễm uốn ván cục bộ cơ thể bệnh nhân sẽ xuất hiện các dấu hiệu đau nhức tại vị trí bị nhiễm. Để hiểu rõ hơn về triệu chứng bệnh uốn ván các bạn nên tham khảo qua ý kiến bác sĩ.

Nguyên nhân nào dẫn đến nhiễm bệnh?

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng cơ thể nhiễm bệnh uốn ván, các bạn cần lưu ý để phòng chống bệnh.

Bị nhiễm trùng tại các vết thương hở, các vết thương với kim loại như sắt thép gỉ đâm vào da.

Không tiêm phòng uốn ván trước đó khiến hệ miễn dịch kháng bệnh bị yếu đi, cơ thể dễ dàng nhiễm bệnh khi bị nhiễm trùng hơn.

Các vết thương hở như xăm mình, xỏ khuyên tai, tiêm bị nhiễm trùng có thể dẫn đến bệnh uốn ván.

Bị gãy xương hở, bị đạn bắn, bị bỏng, bị động vật cắn, lở loét do nhiễm trùng ở chân cũng có thể dẫn đến mắc bệnh.

Có rất nhiều nguy cơ khiến cơ thể chúng ta dễ dàng nhiễm bệnh, các bạn cần cẩn trọng trong sinh hoạt hàng ngày để hạn chế.

Phương pháp khắc phục bệnh uốn ván là gì?

Để đảm bảo cơ thể khỏe mạnh tránh trường hợp bị nhiễm vi khuẩn uốn ván thì trước hết trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh cần tiêm phòng uốn ván. Trong sinh hoạt và công việc hàng ngày mỗi người nên cẩn trọng tránh tiếp xúc nhiều với các tác nhân gây bệnh. Trường hợp có nguy cơ nhiễm bệnh các bạn cần đến ngay bệnh viện để bác sĩ chẩn đoán và áp dụng phương pháp điều trị thích hợp nhất.

Bác sĩ sẽ sử dụng các phương thuốc thích hợp hay tiêm phòng kháng độc, thực hiện loại bỏ mô chết giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng tại vết thương. Tùy vào tình trạng bệnh bệnh nhân sẽ điều trị từ 2 – 4 tháng đến khi cơ thể bình phục.

Mọi trường hợp xin tư vấn ý kiến bác sĩ các bạn nên liên hệ ngay đến địa chỉ uy tín để được giải đáp mọi thắc mắc. Những thông tin trên giúp giải đáp rõ bệnh uốn ván là gì và cần lưu ý gì rồi, các bạn nên tìm hiểu để chủ động phòng bệnh.

Bệnh Uốn Ván Là Gì? Những Cách Phòng Ngừa Bệnh Uốn Ván

Chắc chắn đâu đó chúng ta đã nghe tới cái tên căn bệnh uốn ván rồi đi tiêm chủng uốn ván và đây là căn bệnh có tỷ lệ tử vong rất cao. Tuy nhiên, rất ít người hiểu rõ về bệnh uốn ván là gì, cách phòng ngừa ra sao.

Bệnh uốn ván là loại bệnh cấp tính do cơ thể bị nhiễm ngoại độc tố tetanus exotoxin từ vi khuẩn uốn ván có tên là Clostridium tetani gây ra. Loại vi khuẩn này tiết ra chất độc gây tổn thương thần kinh, dẫn tới các cơ bắp bị tê liệt, cứng. Bệnh có tỷ lệ tử vong rất cao, không nhanh chóng điều trị thì cơ hô hấp sẽ ngưng hoạt động, dẫn tới nguy kịch và tử vong.

Do bệnh có tỷ lệ tử vong cao nên mọi người cần có những cách ngăn ngừa để hạn chế việc mắc phải bệnh uốn ván.

Cách ngăn ngừa bệnh uốn ván hiệu quả nhất chính là mọi người từ trẻ nhỏ tới người lớn đều cần chủ động tiêm vắc xin uốn ván sớm và đầy đủ. Đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh.

Ngày nay, vắc – xin uốn ván đã được bào chế dưới dạng phối kết hợp với các loại vắc – xin khác nên rất tiện lợi cho mẹ trong việc đưa bé đi tiêm ngừa, phòng bệnh.

Lịch tiêm chủng uốn ván hiện nay ở nước ta như sau:

Uốn ván sơ sinh: phụ nữ mang thai sẽ được gây miễn dịch cơ bản bằng 2 liều giải độc tố uốn ván – tetanus toxoid: TT, cách nhau tối thiểu 1 tháng, liều thứ 2 tiêm trước khi sinh 1 tháng. Những lần mang thai sau, trước khi sinh 1 tháng cần tiêm nhắc lại 1 liều TT.

Đối với trẻ em dưới 1 tuổi: trẻ em vào lúc 2, 3, 4 tháng tuổi sẽ được gây miễn dịch cơ bản với 3 liều vắc – xin phối hợp bạch hầu – ho gà – uốn ván (DPT).

Và để duy trì khả năng miễn dịch, phòng ngừa trước căn bệnh uốn ván thì cứ 10 năm lại tiêm nhắc lại một lần TT, bởi vắc – xin không tạo miễn dịch bền vững trọn đời.

Khi bị thương, có nguy cơ bị mắc bệnh cần tiền hành tiêm phòng ngừa luôn. Phụ thuộc vào lịch sử tiêm và độ tổn thương mà áp dụng lượng tiêm phù hợp:

Với những người đã được tiêm TT đầy đủ, vết thương nhẹ, không bị nhiễm bẩn, đồng thời, lần tiên TT cuối cùng cách đó hơn 10 năm thì cần tiêm nhắc lại 1 mũi. Đối với vết thương nặng, bị nhiễm bẩn, chưa được tiêm TT trong vòng 5 năm trước đó thì cần tiêm ngay 1 liều trong ngày bị thương.

Trường hợp người bị thương chưa được gây miễn dịch cơ bản đầy đủ thì cần tiêm 1 liều TT càng sớm càng tốt sau khi bị thương. Những vết thương nặng, bị nhiễm bẩn thì cần bổ sung thêm mũi tiêm globulin miễn dịch uốn ván (TIG).

Trong trường hợp không rõ tiền sử tiêm phòng, lại bị thương nặng thì cần tiêm TIG với liều thấp nhất là 250 IU.

Hi vọng thông qua bài viết này, bạn sẽ có được những kiến thức bổ ích chăm lo cho sức khỏe của bản thân và các thành viên gia đình mình

Uốn Ván Và Triệu Chứng Của Bệnh Uốn Ván

Bệnh uốn ván là một nhiễm khuẩn nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao, đặc trưng bởi tăng trương lực cơ và các cơn co cứng, gây ra bởi một độc tố protein mạnh là tetanospasmin do Clostridium tetani tiết ra.

Bệnh uốn ván xuất hiện rải rác ở các vùng nông thôn; ở các nước không có Chương trình tiêm chủng mở rộng thì bệnh ở trẻ sơ sinh và người trẻ tuổi chiếm tỷ lệ cao. Bệnh uốn ván thường xảy ra sau một tổn thương cấp tính như vết chích da, vết rách da, vết trầy da, bỏng, viêm tai giữa, phẫu thuật, sảy thai, sinh đẻ…

Khi mắc bệnh uốn ván tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90% . Đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật.

Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4 – 21 ngày. Tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.

Những vết thương trên cơ thể cần được xử trí đúng cách để tránh vi khuẩn xâm nhập và gây hại lâu dài – Ảnh: Shutterstock

Tại Bệnh viện (BV) Bệnh nhiệt đới T.Ư các tuần gần đây liên tục tiếp nhận các ca bệnh uốn ván nhập viện. Nhiều trường hợp mắc uốn ván với nguyên nhân ban đầu hết sức đơn giản.

Trước khi nhập viện 20 ngày, ông Trần Văn D. (45 tuổi, ở Quế Võ, Bắc Ninh) không may bị gạch rơi vào chân. Ông D. đã tự rửa và băng bó vết thương nhưng không tiêm phòng uốn ván. Khoảng 3 ngày trước khi vào viện, ông D. bị cứng hàm, khó há miệng, tiến triển tăng dần thành co cứng cơ toàn thân. Bệnh nhân có biểu hiện đau cổ, gáy…; đến khám tại BV Tai mũi họng T.Ư, ông được chẩn đoán mắc uốn ván và chuyển điều trị tại BV Bệnh nhiệt đới.

Trước bệnh nhân D., một trường hợp khác nhập viện do uốn ván là bệnh nhân Trương Thị A. (52 tuổi, ở Duy Tiên, Hà Nam). Khoảng 2 tuần trước nhập viện, ở nhà bà A. giẫm phải cọc tre, xuyên vào mu bàn chân. Bà đã tự rửa và băng bó vết thương, không tiêm phòng uốn ván. Một tuần sau tai nạn, bà A. thấy cứng hàm, khó há miệng nên vào BV huyện điều trị. Sau 3 ngày bệnh tăng nặng, co giật nhiều cơn. Bệnh nhân được chuyển lên BV Bệnh nhiệt đới T.Ư trong tình trạng co cứng cơ toàn thân, co giật. Do bị co cứng các cơ hô hấp không thở được, bệnh nhân phải mở khí quản, thở máy. “Bệnh nhân mắc uốn ván có thể tử vong do suy hô hấp bởi tình trạng co cứng các cơ hô hấp”, bác sĩ Nguyễn Trung Cấp, Phó trưởng khoa Cấp cứu, BV Bệnh nhiệt đới T.Ư lưu ý.

Theo bác sĩ điều trị, hầu hết các trường hợp nhập viện đều bị các vết thương do tai nạn sinh hoạt (cành tre đâm bàn chân, tay, đâm vào trán; vết thương do mảnh sành, do gạch, ngói), sau đó tự xử trí bằng rửa nước và băng bó, không tiêm phòng uốn ván.

Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp cho biết vi khuẩn gây uốn ván có ở mọi nơi trong đất, trong chất thải của súc vật (phân trâu, bò, ngựa). Khi lao động trong các môi trường này, vi khuẩn uốn ván dễ dàng xâm nhập vào các vết thương xây xước gây bệnh. Khi cắt sửa móng tay, chân kẽ móng cắt sâu gây vết thương bị giắt bẩn bùn, đất cũng là nguy cơ cho uốn ván xâm nhập.

Trong môi trường tự nhiên, vi khuẩn uốn ván tồn tại dưới dạng nha bào (có lớp vỏ bao bọc bên ngoài) rất bền vững. Nha bào uốn ván có thể tồn tại nhiều năm trong môi trường, chỉ bị tiêu diệt trong nước sôi 30 phút, trong môi trường dung dịch sát khuẩn 20 phút. Khi lọt được vào trong vết thương yếm khí (vết thương bị dập nát dính cát bẩn, không có không khí, vết thương bị băng bó chặt, bó lá…), nha bào thoát vỏ thành vi khuẩn, tiết độc tố uốn ván. Các độc tố này sẽ xâm nhập vào cơ thể, đi vào hệ thần kinh và gây ra co cứng cơ hoặc co giật cơ khi có kích thích, rất nguy hiểm.

Một trong các biện pháp điều trị và dự phòng uốn ván đó là tiêm phòng vắc xin uốn ván. Chi phí tiêm vắc xin cho phòng uốn ván không đắt, và hiệu quả cao. Nếu mắc uốn ván, việc điều trị lâu dài và tốn kém, chi phí từ vài chục triệu đến cả trăm triệu đồng. Với bệnh nhân Trương Thị A. nói trên, bệnh phục hồi sau 38 ngày điều trị, chi phí gần 90 triệu đồng.

Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp nhận xét, tại BV các ca bệnh uốn ván hiện thường gặp ở người lớn vì đó là những trường hợp chưa tiêm vắc xin uốn ván, hoặc việc tiêm vắc xin lâu năm đã giảm khả năng bảo vệ.

Lâu nay, vắc xin uốn ván được tiêm cho bà mẹ mang thai; sau sinh trẻ vẫn được tiêm phòng uốn ván, vì vậy hiếm gặp uốn ván ở sản phụ và trẻ nhỏ. Nhưng về lâu dài, tác dụng của vắc xin có thể giảm ở người lớn; cần đến các cơ sở y tế để được hướng dẫn tiêm phòng.

Khi bị thương ngoài da, bạn cần vệ sinh và chăm sóc vết thương đúng cách, phòng chống uốn ván:

– Rửa ngay với nước sạch để trôi chất bẩn

– Rửa lại vết thương bằng nước ô xy già từ 3 – 4 lần

– Sát trùng bằng cồn i ốt tại vết thương và quanh vết thương

– Băng vết thương lại (phủ trên gạc) và đến cơ sở y tế gần nhất

– Không tự ý đắp, bôi hoặc bó bất cứ thứ gì khác lên vết thương.

Bệnh khởi phát sau chấn thương, trung bình là 7 ngày; 15% số trường hợp khởi phát bệnh trong vòng 3 ngày và 10% khởi phát bệnh sau 14 ngày. Uốn ván toàn thân là thể bệnh hay gặp nhất. Dấu hiệu điển hình là tăng trương lực cơ và co cứng toàn thân. Lúc đầu tăng trương lực cơ ở các cơ nhai, nuốt khó và cứng hay đau các cơ cổ, vai, lưng. Kế tiếp các cơ khác cũng bị tăng trương lực gây ra cứng bụng và cứng các cơ ở gốc chi; do co cứng liên tục các cơ mặt, tạo ra một vẻ mặt nhăn nhó hay kiểu cười khẩy, cười nhăn, co cứng cơ lưng tạo ra một tư thế lưng cong ưỡn lưng.

Ở một số bệnh nhân xuất hiện các cơn co cứng toàn thân kịch phát, với cường độ mạnh, những cơn đau làm cho bệnh nhân xanh tím và đe dọa ngừng thở. Các cơn này có thể lặp đi lặp lại, có thể là tự phát hoặc do kích thích dù là rất nhẹ. Ở mức độ nhẹ, bệnh nhân chỉ bị tình trạng cứng cơ và có một vài cơn co cứng hoặc không có cơn co cứng nào. Thể vừa có dấu hiệu cứng hàm, khó nuốt, cứng cơ và các cơn co cứng. Trường hợp nặng, bệnh nhân bị nhiều cơn kịch phát, có thể bị sốt (phần lớn không sốt). Các phản xạ gân sâu tăng. Nuốt khó hoặc chướng bụng làm cho bệnh nhân ăn uống khó khăn.

Rối loạn hệ thần kinh thực vật như huyết áp tăng thất thường, hay thường xuyên; nhịp tim nhanh, loạn nhịp tim; sốt cao, vã mồ hôi. Một số biến chứng về tim mạch có thể gặp là hạ huyết áp và chậm nhịp tim, đôi khi xuất hiện ngừng tim đột ngột. Những biến chứng khác là viêm phổi, gãy xương, vỡ cơ, loét do nằm và ly giải cơ vân.

Uốn ván ở trẻ sơ sinh, thường khởi phát trong 2 tuần đầu sau khi sinh với các dấu hiệu: trẻ bỏ bú, cứng cơ và các cơn co cứng; thường là uốn ván toàn thân và dễ dẫn đến tử vong nếu không điều trị.

Uốn ván cục bộ ít gặp, biểu hiện chỉ giới hạn ở các cơ gần vết thương, đây là thể nhẹ, tiên lượng tốt. Uốn ván đầu là một hình thái hiếm gặp của uốn ván cục bộ, diễn ra sau chấn thương đầu hay nhiễm khuẩn tai. Các triệu chứng gồm cứng hàm, rối loạn chức năng một hoặc nhiều dây thần kinh sọ, thường gặp là dây số 7, tỷ lệ tử vong cao.

Nguyên nhân gây bệnh uốn ván

Do bị trầy xát và viết thương tiếp xúc trực tiếp với trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani có trong đất, cát bụi, phân trâu bò ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ …, xâm nhập vào các vết thương, vết xây xước phát triển thành ổ nhiễm trùng gây bệnh uốn ván .

Nh ững ng ười có nguy c ơ m ắc cao :

– Người làm việc ở các trang trại, các nông trường chăn nuôi gia súc và gia cầm

– Người dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại.

– Công nhân xây dựng các công trình.

– Bộ đội và thanh niên xung phong.

Đặc điểm của vi khuẩn gây bệnh:

Vi khuẩn C.tetani là trực khuẩn gram dương, di động, kỵ khí, có hình bầu dục, không có màu, nha bào có mặt ở khắp nơi trên thế giới: trong đất, môi trường kỵ khí, phân súc vật, phân người. Nha bào có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nhưng khi ở dạng các tế bào thực vật, chúng dễ dàng bị khử hoạt tính và nhạy cảm với nhiều kháng sinh như: metronidazol, penicillin…

Nguyên tắc điều trị là diệt trừ vi khuẩn, trung hòa độc tố, ngăn ngừa các cơn co cứng cơ, theo dõi và xử trí hỗ trợ hô hấp. Bệnh nhân phải được chăm sóc trong một căn phòng yên tĩnh để giám sát và theo dõi tim, phổi thường xuyên, hạn chế mọi sự kích thích. Duy trì và bảo vệ đường thở. Xử lý vết thương sạch sẽ, loại bỏ triệt để các dị vật.

– Dùng kháng sinh: tiêu diệt tận gốc tế bào thực vật là nguồn sản sinh ra độc tố. Có thể dùng một trong các thuốc như sau: penicillin 10 – 12 triệu đơn vị tiêm mỗi ngày x 10 ngày; metronidazol 500mg mỗi 6 giờ hay 1g mỗi 12 giờ; dùng clindamycin, erythromycin. Đồng thời phải điều trị đặc hiệu với nhiễm khuẩn do các vi khuẩn khác gây ra.

– Dùng kháng độc tố uốn ván : để vô hiệu hóa độc tố lưu hành trong máu và độc tố ở vết thương nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong; kịp thời dùng globulin miễn dịch uốn ván của người. Tốt nhất là nên tiêm kháng độc tố trước khi điều trị vết thương.

– Kiểm soát các cơn co cứng: Dùng một hay phối hợp các thuốc sau đây: diazepam được sử dụng phổ biến: lorazepam, barbiturat, chlorpromazin. Thuốc phong bế thần kinh cơ kết hợp với thở máy để điều trị các cơn co cứng không đáp ứng với thuốc hoặc các cơn co cứng đe dọa ngừng thở.

– Điều trị hỗ trợ: Mở khí quản có thể kết hợp hoặc không kết hợp với thở máy; bù nước và điện giải; tăng cường dinh dưỡng bằng truyền dịch hoặc cho ăn qua ống thông vào dạ dày; vật lý trị liệu để đề phòng cứng cơ; dùng heparin và các chất kháng đông khác để đề phòng tắc mạch phổi; theo dõi chức năng của thận, bàng quang và ruột; phòng chống chảy máu và loét đường tiêu hóa.

– Dùng vaccin gây miễn dịch chủ động: Tất cả bệnh nhân phải được tiêm vaccin sau khi bệnh đã phục hồi.

CÁCH XỬ TRÍ VẾT THƯƠNG BỊ NHIỄM TRÙNG

Bất kỳ vết thương xuyên qua da nào cũng có thể gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng xảy ra do mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, hoặc qua vật gây ra vết thương (ví dụ như một con dao bẩn) hoặc từ những nguồn khác sau khi gây ra vết thương. Vết cắn, vết cắt, vết đâm chích, vết bỏng và những chỗ nứt, gãy hở đều có thể mang đến nguy cơ nhiễm trùng. Bất kỳ vết thương xuyên qua da nào cũng có thể gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng xảy ra do mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, hoặc qua vật gây ra vết thương (ví dụ như một con dao bẩn) hoặc từ những nguồn khác sau khi gây ra vết thương. Vết cắn, vết cắt, vết đâm chích, vết bỏng và những chỗ nứt, gãy hở đều có thể mang đến nguy cơ nhiễm trùng.

Có nhiều điều bạn có thể thực hiện để giảm nguy cơ nhiễm trùng.

Vi khuẩn uốn ván vào cơ thể như thế nào?

Uốn ván là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván có tên khoa học là Clostridium tetani gây ra. Ở dạng nha bào, vi khuẩn có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nha bào uốn ván có trong đất, cát bụi, phân trâu, bò, ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt khuẩn kỹ, sắt thép gỉ… Nha bào uốn ván xâm nhập vào cơ thể qua vết thương, sau đó thoát nha bào thành thể hoạt động, giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền co cứng đó xuất hiện các cơn co giật. Bệnh nhân bị tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim. Uốn ván có tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90%, đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%.

Những người có nguy cơ mắc bệnh là: người lao động nông nghiệp, làm việc ở các trang trại, các nông lâm trường, chăn nuôi gia súc và gia cầm, dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại, công nhân xây dựng…

Uốn ván là bệnh nguy hiểm dễ gây tử vong, nên mọi người cần cảnh giác phòng tránh bệnh. Phụ nữ mang thai cần tiêm vaccin phòng bệnh uốn ván để phòng uốn ván khi sinh. Khi bị vết thương, đặc biệt vết thương bẩn cần xử lý đúng cách, rửa vết thương bằng nước sạch để trôi chất bẩn; rửa lại vết thương bằng nước ôxy già từ 3 – 4 lần; sát trùng bằng cồn iod tại vết thương và quanh vết thương; dùng băng vô khuẩn để băng vết thương, sau đó đến cơ sở y tế gần nhất để khám và tiêm phòng uốn ván.

Uốn Ván Và Chăm Sóc Người Bệnh Uốn Ván

Uốn ván là một bệnh nhiễm khuẩn nhiễm độc do Clostridium Tetani gây nên. Vi khuẩn sinh sản tại nơi xâm nhập, độc tố tiết ra tác động vào dây thần kinh vận động gây co cứng cơ vân và co giật toàn thân. Bệnh diễn biến khó lường trước được, tử vong cao.

Clostridium Tetani là một trực khuẩn Gram (+) yếm khí, bào tử sống nhiều năm trong đất, nhất là những nơi có lẫn phân động vật, chịu được nước sôi 1-3 giờ, đề kháng tốt với dung dịch phenol 5%, tormalin 3%.

Bào tử còn được tìm thấy trong đất bụi, trong ruột các động vật có vú, nhất là ngựa, cừu.

Clostridium Tetani xâm nhập qua đường da, niêm mạc do tai nạn giao thông, vết thương chiến tranh, thủ thuật không vô khuẩn (phá thai…).

Trẻ dưới 5 tuổi và người lớn thường bị bệnh nặng. Tỷ lệ tử vong 30-50%, nam nhiều hơn nữ.

Các vết thương giập nát, sâu, có nhiều mô hoại tử, nhiều đất bụi, thiếu oxy chính là nơi vi khuẩn phát triển tốt.

Từ lúc bắt đầu bị thương đến lúc cứng hàm, trung bình 7-14 ngày. Thời gian ủ bệnh càng ngắn thì bệnh càng nặng.

Bệnh nhân hơi mệt, nhức đầu, mỏi quai hàm, nói khó, nuốt vướng, uống nước sặc. Khi thăm khám thấy cơ nhai co cứng, không có điểm đau rõ rệt, không thể đè lưỡi để làm rộng miệng được.

Triệu chứng có thể tại chỗ (cứng hàm, cứng gáy) hay triệu chứng toàn thân.

Co cứng, đau cơ:

Co cứng bắt đầu là cơ nhai (cứng hàm) rồi đến cơ mặt (cười nhăn mặt), cơ gáy, cơ lưng, cơ bụng, cơ chi dưới (duỗi), cuối cùng là cơ chi trên (co quắp).

Sự co cứng liên tục các cơ toàn thân làm cho bệnh nhân có cảm giác đau nhức.

Co giật cứng toàn thân:

Xảy ra sau một kích thích (đụng chạm, ánh sáng, tiếng ồn…), khi co thắt các cơ hầu họng bệnh nhân khó nuốt, co thắt thanh quản gây nghẹt thở, tím tái, ngừng thở.

Rối loạn cơ năng:

Khó nuốt, khó nói, co cơ hô hấp, tăng tiết đờm nhớt, bí tiểu, bí đại tiện.

Bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo.

Sốt 38-38.5°c

Mạch hơi nhanh 90-120 lần/phút.

Vã mồ hôi sau các cơn giật.

Khi bệnh diễn biến nặng sẽ có sốt cao trên 39°c, mạch nhanh trên 140 lần/ phút, tăng tiết đờm nhốt, lơ mơ hoặc hôn mê vì thiếu oxy não.

Từ ngày thứ 10, các cơn co giật thưa dần, mạch, nhiệt độ trở lại bình thường, miệng há được, rộng dần. Thời kỳ lại sức kéo dài.

Bệnh càng ngày càng nguy kịch, bệnh nhân đi vào hôn mê và tử vong trong vòng vài ngày.

Bệnh đang thuyên giảm thì đột nhiên nguy kịch dẫn đến tử vong. ‘

Dựa vào dịch tễ học và lâm sàng.

Điều trị đặc hiệu

Trung hoà độc tố: Huyết thanh chống uốn ván SAT (Serum Anti Tetanique), phải dùng sốm khi độc tố” còn lưu hành trong máu, chưa gắn vào tế bào thần kinh. 1/2 tiêm bắp, 1/2 tiêm dưới da liều duy nhất: 500 – 10.000 đv/kg (30.000-50.000) nặng 100.000 đv (làm test trước – giải mẫn cảm).

Huyết thanh chống uôh ván tuỳ từng người: 400- 1.000 đv tiêm bắp.

Tác dụng tốt, ít phản ứng.

+ Vaccin giảm độc tố VAT (Vaccin Anti Tetanique); 0,1 ml trong da X 3 lần cách 1 tuần.

+ Kháng sinh penicillin 50.000-100.000 đv/kg/ngày.

Săn sóc quan trọng

Bảo đảm thông đường hô hấp: Thở Oxy hút đờm nhốt, mở khí quản.

Kiểm soát cơn co giật: An thần nhanh kèm giãn cơ.

+ Điều trị nền: 2-4 mg/ kg/ngày chia 4 lần.

+ Dùng diazepam uống: hay nhỏ giọt tĩnh mạch.

+ Điều trị cắt cơn: 0,5mg/kg/lần. Tim mạch chậm có thể dùng thêm phenobarbital, giải quyết nguyên nhân.

Xử lý vết thương: cắt lọc, làm sạch, rửa nước oxy già, dùng kháng sinh diệt khuẩn.

Điều chỉnh rối loạn nước – điện giải, cung cấp năng lượng bằng glucose.

Chống tái phát.

Xử lý vết thương có nguy cơ bị uốn ván.

Rửa sạch bằng nước o xy già.

cất lọc, lấy dị vật.

Không băng quá kín, quá chặt.

Dùng ampicillin 2g/ ngày.

Chích VAT hay SAT:

VAT 0,1 ml trong da X 3 lần cách 1-2 tuần.

Vô khuẩn dụng cụ.

Vệ sinh môi trường.

Chích VAT cho trẻ em – sản phụ.

CHĂM SÓC BÊNH NHÂN BỊ BỆNH UỐN VÁN Nhận định

Tình trạng hô hấp:

Quan sát da, móng tay chân, đếm nhịp thở,. kiểu thồ, tình trạng tăng tiết.

Bệnh nhân co thắt thanh quản khó thở nặng phải mỏ khí quản, cho thở Oxy.

Hoặc co giật liên tục có cơn ngừng thở hoặc ứ đọng đồm nhớt đưa đến suy hô hấp.

Tình trạng tuần hoàn:

Mạch nhanh yếu, thở yếu, huyết áp dao động là tình trạng nặng.

Có dụng cụ để hồi sức cấp cứu.

Mạch

Theo dõi mạch, huyết áp 30 phút /lần, 1 giờ/ lần, 3 giờ/ lần. Bệnh nhân có biến chứng tim mạch làm rối loạn nhịp tim và ngừng tim.

Tình trạng thần kinh:

Co cứng cơ và đau liên tục.

Co cứng toàn thân.

Rối loạn cơ năng.

Bệnh nhân tỉnh và đau nhiều .

Tình trạng chung:

Đo nhiệt độ: không cao lắm. Nếu sốt cao xem lại có nhiễm khuẩn phổi, đường tiểu hay nhiễm khuẩn ở vết thương hay không .

Vã mồ hôi nhiều sau cơn co giật.

Hôn mê hay lơ mơ do thiếu Oxy não.

Có kế hoạch chăm sóc thích hợp để thực hiện kịp thời, chính xác, đầy đủ các xét nghiệm.

Nếu bệnh nhân hôn mê phải cho ăn qua ống thông dạ dày.

Xem bệnh án để biết:

+ Chẩn đoán.

+ Chỉ định thuốc.

+ Xét nghiệm.

+ Các yêu cầu theo dõi khác, yêu cầu dinh dưỡng; có thể cho bệnh nhân ăn đường miệng không ?

Lập kế hoạch chăm sóc

Bảo đảm thông khí.

Theo dõi tuần hoàn.

Theo dõi các biến chứng.

Thực hiện y lệnh.

Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn.

Phát hiện các dấu hiệu bất thường để xử lý kịp thời.

Chăm sóc hệ thống cơ quan.

Nuôi dưỡng.

Hướng dẫn nội quy.

Giáo dục sức khoẻ.

Thực hiện kế hoạch chăm sóc

Đặt bệnh nhân nằm ngửa, đầu nghiêng sang một bên.

Đặt canuyn Mayor.

Bóp bóng ambu nếu có cơn ngừng thỏ.

Cho thở oxy.

Chuẩn bị dụng cụ, thuốc để trợ thủ bác sĩ mở khí quản.

Theo dõi nhịp thở, tình trạng tăng tiết, sự tím da, môi và đầu ngón.

Hút đờm dãi đúng kỹ thuật.

Đề phòng hít phải chất nôn, chất xuất tiết.

Đề phòng tụt lưỡi.

Cho bệnh nhân có cơn co thắt hầu thanh quản,khó thở nặng.

Theo dõi tuần hoàn:

Lấy mạch, huyết áp, nhiệt độ ngay khi tiếp nhận bệnh nhân và báo cáo ngay bác sĩ.

Theo dõi sát mạch, huyết áp, 30 phút/1 lần, 1 giờ/lần, 3 giò/ lần.

Theo dõi các biến chứng :

Hô hấp.

Tim mạch.

Bội nhiễm.

Xuất huyết tiêu hoá.

Thực hiện các y lệnh: Chính xác kịp thời, đúng giờ.

Thuốc

+ SAT.

+ An thần.

Theo dõi cơn co giật (nhịp độ, cường độ, đáp ứng thuốc an thần), độ mỏ miệng, nuốt sặc/ngày.

Giữ an toàn cho bệnh nhân.

Lấy nhiệt độ.

Hạn chế các yếu tố gây co giật.

Săn sóc vết thương (nếu có).

Giai đoạn hồi phục còn cứng cơ, cứng khớp nền tập luyện và làm vật lý trị liệu.

Xét nghiệm.

Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn tuỳ tình trạng bệnh nhân.

Chăm sóc hệ thống cơ quan:

Nhiệt độ cao: Lau mát.

Vệ sinh răng miệng.

Vệ sinh mắt, tai, mũi.

Vệ sinh da: chăm sóc ngừa loét, giữ cho khăn trải giường khô và thẳng.

– Từ lúc cứng hàm đến co giật dưới 48 giờ là bệnh nặng.

Có cơn co giật tím tái hoặc ngừng thở phải hồi sức cấp cứu ngay.

Bảo đảm yên tĩnh, không tiếng động, ánh sáng dịu.

Thay băng hàng ngày.

Săn sóc mở khí quản hàng ngày và chuẩn bị rút mở khí quản khi bệnh nhân hết khó thở. Làm loãng đờm để dễ hút.

Bơm thuốc qua ống thông dạ dày.

Cần tập trung công tác chăm sóc.

Nuôi dưỡng:

+ Cho ăn lỏng và sệt để tránh sặc.

+ Nặng thì cho ăn qua thông dạ dày và truyền dung dịch ưu trương.

+ Dinh dưỡng đầy đủ và thích hợp

Để hạn chế cơn co giật.

Giáo dục sức khoẻ:

Bằng thái độ dịu dàng để bệnh nhân yên tâm điều trị.

Ngay từ khi bệnh nhân mới vào phải hướng dẫn nội quy khoa phòng cho bệnh nhân (nếu tỉnh) và thân nhân của bệnh nhân.

Vì tỷ lệ chết rất cao

Tiêm chủng DTC khi chưa có vết , thương cho trẻ em

+ Có vết thương : Chú ý các vết thương bẩn, giập nát nhiều .

+ SAT 1.500 – 3.000 đv/ tiêm bắp và tiêm vaccin.

Dự phòng uốn ván rốn:

+ Quản lý thai.

+ Đõ đẻ vô khuẩn.

+ Tiêm phòng uốn ván cho bà mẹ khi mang thai.

+ Sát khuẩn đầu cuông rôh bằng cồn iod.

Đánh giá

– Được đánh giá là chăm sóc tốt, nếu:

+ Từ ngày thứ 10 trở đi các cơn giật giảm dần.

+ Mạch, nhiệt độ trở lại bình thường.

+ Miệng há to dần.

+ Ngủ được.

+ Thời kỳ lại sức kéo dài hàng tháng.

Bệnh Uốn Ván Và Cách Phòng Ngừa Uốn Ván

Hai con của tôi đã được tiêm chủng hồi vòn nhỏ (tiêm chủng 6 loại vaccin) trong đó dường như đã có chủng ngừa uốn ván (tê ta nốt) . như vậy việc chủng ngừa đó đến bây giờ có còn tác dụng không? nếu còn thì nếu có trầy sướt, hoặc thị thương thì có cần phải tiêm chủng ngay sau khi bị thương không?. Đó là trường hợp chủng ngừa khi còn nhỏ, còn trường hợp không chủng ngừa uốn ván hồi còn nhỏ, thì bây giờ nếu bị thương thì tất nhiên là phải chích ngừa, thế nhưng nếu sau đó lại bị thương nữa, thì lần sau có cần phải chích ngừa nữa không? Xin cảm ơn và kính chào quý vi.

Trả lời: Bệnh uốn ván là gìBệnh uốn ván là bệnh gây nên do trực khuẩn gram (-) có tên là Clostridum tetani, bệnh xuất hiện do vết thương bị nhiễm nha bào uốn ván. Trong cơ thể, nha bào phát triển thành vi khuẩn và sinh sản ra chất độc (độc tố).

Điều kiện yếm khí thúc đẩy vi khuẩn phát triển, vì thế với những vết thương có nhiều nguy cơ có nha bào uốn ván như vết thương do vật bằng sắt thép gỉ, vết thương bẩn, có tiếp xúc với đất cát (vì chủ yếu nha bào có nhiều trong đất và phân) thì sau khi làm sạch, nếu băng kín vết thương sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn uốn ván phát triển.Độc tố uốn ván xâm nhập vào các sợi thần kinh ngoại vi của hệ thần kinh trung ương. Tại đây, nó ức chế sự giải phóng các chất ức chế thần kinh như glycin, GABA gây nênn các triệu chứng co cứng cơ, co giật do tăng trương lực cơ, liệt cứng và bệnh nhân có thể chết do suy hô hấp.

Miễn dịch trong bệnh uốn vánLịch sử tiêm uốn ván rất quan trong trong việc xử lý các vết thương và phòng bệnh uốn ván.

Lịch tiêm văcxin uốn ván như sau:

1/ Văcxin Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván (DPT) được tiêm tổng cộng 5 liều như sau:Vào lúc 2 tháng tuổi; 4 tháng tuổi; 6 tháng tuổi; 15 – 18 tháng tuổi và 4 – 6 tuổi. Nên tiêm cho trẻ dưới 7 tuổi.

2/ Td (Giải độc tố uốn ván cùng với giải độc tố bạch hầu liều thấp) nên tiêm cho người trên 7 tuổi như sau:Tiêm vào 14- 16 tuổi, cứ sau 10 năm tiêm nhắc lại một lần.Tiêm ngừa uốn ván thế nào khi có vết thương

3.1. Nếu vết thương sạch, nhỏ, trong vòng 6 giờ và sâu không dưới 1cm, không bẩn:– Nếu không chắc chắn hoặc tiêm chưa đầy đủ (nhỏ hơn 3 liều) (1): Chỉ dùng Td.– Tiêm đầy đủ (3 hoặc hơn 3 liều) và mới tiêm (2): Không tiêm gì cả, để hở vết thương.– Tiêm đầy đủ nhưng trong vòng 5 năm đến 10 năm kể từ lần tiêm gần nhất (3): không tiêm gì cả, chỉ để hở vết thương.– Tiêm đầy đủ, nhưng lần tiêm gần nhất cách đây 10 năm (4): tiêm Td.

3.2. Nếu vết thương có đất, nước bọt, phân, vết thương xuyên thủng, nát, bị cắn, trên 6 giờ, sâu trên 1cm .

– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (1): Tiêm Td và TIG ở hai vị trí khác nhau.– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (2): Không dùng gì cả. – Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (3): Chỉ dùng Td– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (4): Chỉ dùng Td

Ghi chú:

– Td là giải độc tố uốn ván cùng với giải độc tố bạch hầu liều thấp.

– TIG là globulin miễn dịch chống uốn ván, tạo ra miễn dịch thụ động chống độc tố uốn ván.

– Khi tiêm Td và TIG nên tiêm ở hai vị trí khác nhau, nếu không globulin miễn dịch sẽ gắn với giải độc tố và cả hai mất tác dụng.

Hy vọng thông tin cung cấp sẽ giúp ích cho bạn.

Lưu ý: Chữa bệnh theo chỉ định của Bác sĩ