Uốn Ván Có Triệu Chứng Gì / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Uốn Ván Và Triệu Chứng Của Bệnh Uốn Ván

Bệnh uốn ván là một nhiễm khuẩn nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao, đặc trưng bởi tăng trương lực cơ và các cơn co cứng, gây ra bởi một độc tố protein mạnh là tetanospasmin do Clostridium tetani tiết ra.

Bệnh uốn ván xuất hiện rải rác ở các vùng nông thôn; ở các nước không có Chương trình tiêm chủng mở rộng thì bệnh ở trẻ sơ sinh và người trẻ tuổi chiếm tỷ lệ cao. Bệnh uốn ván thường xảy ra sau một tổn thương cấp tính như vết chích da, vết rách da, vết trầy da, bỏng, viêm tai giữa, phẫu thuật, sảy thai, sinh đẻ…

Khi mắc bệnh uốn ván tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90% . Đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật.

Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4 – 21 ngày. Tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.

Những vết thương trên cơ thể cần được xử trí đúng cách để tránh vi khuẩn xâm nhập và gây hại lâu dài – Ảnh: Shutterstock

Tại Bệnh viện (BV) Bệnh nhiệt đới T.Ư các tuần gần đây liên tục tiếp nhận các ca bệnh uốn ván nhập viện. Nhiều trường hợp mắc uốn ván với nguyên nhân ban đầu hết sức đơn giản.

Trước khi nhập viện 20 ngày, ông Trần Văn D. (45 tuổi, ở Quế Võ, Bắc Ninh) không may bị gạch rơi vào chân. Ông D. đã tự rửa và băng bó vết thương nhưng không tiêm phòng uốn ván. Khoảng 3 ngày trước khi vào viện, ông D. bị cứng hàm, khó há miệng, tiến triển tăng dần thành co cứng cơ toàn thân. Bệnh nhân có biểu hiện đau cổ, gáy…; đến khám tại BV Tai mũi họng T.Ư, ông được chẩn đoán mắc uốn ván và chuyển điều trị tại BV Bệnh nhiệt đới.

Trước bệnh nhân D., một trường hợp khác nhập viện do uốn ván là bệnh nhân Trương Thị A. (52 tuổi, ở Duy Tiên, Hà Nam). Khoảng 2 tuần trước nhập viện, ở nhà bà A. giẫm phải cọc tre, xuyên vào mu bàn chân. Bà đã tự rửa và băng bó vết thương, không tiêm phòng uốn ván. Một tuần sau tai nạn, bà A. thấy cứng hàm, khó há miệng nên vào BV huyện điều trị. Sau 3 ngày bệnh tăng nặng, co giật nhiều cơn. Bệnh nhân được chuyển lên BV Bệnh nhiệt đới T.Ư trong tình trạng co cứng cơ toàn thân, co giật. Do bị co cứng các cơ hô hấp không thở được, bệnh nhân phải mở khí quản, thở máy. “Bệnh nhân mắc uốn ván có thể tử vong do suy hô hấp bởi tình trạng co cứng các cơ hô hấp”, bác sĩ Nguyễn Trung Cấp, Phó trưởng khoa Cấp cứu, BV Bệnh nhiệt đới T.Ư lưu ý.

Theo bác sĩ điều trị, hầu hết các trường hợp nhập viện đều bị các vết thương do tai nạn sinh hoạt (cành tre đâm bàn chân, tay, đâm vào trán; vết thương do mảnh sành, do gạch, ngói), sau đó tự xử trí bằng rửa nước và băng bó, không tiêm phòng uốn ván.

Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp cho biết vi khuẩn gây uốn ván có ở mọi nơi trong đất, trong chất thải của súc vật (phân trâu, bò, ngựa). Khi lao động trong các môi trường này, vi khuẩn uốn ván dễ dàng xâm nhập vào các vết thương xây xước gây bệnh. Khi cắt sửa móng tay, chân kẽ móng cắt sâu gây vết thương bị giắt bẩn bùn, đất cũng là nguy cơ cho uốn ván xâm nhập.

Trong môi trường tự nhiên, vi khuẩn uốn ván tồn tại dưới dạng nha bào (có lớp vỏ bao bọc bên ngoài) rất bền vững. Nha bào uốn ván có thể tồn tại nhiều năm trong môi trường, chỉ bị tiêu diệt trong nước sôi 30 phút, trong môi trường dung dịch sát khuẩn 20 phút. Khi lọt được vào trong vết thương yếm khí (vết thương bị dập nát dính cát bẩn, không có không khí, vết thương bị băng bó chặt, bó lá…), nha bào thoát vỏ thành vi khuẩn, tiết độc tố uốn ván. Các độc tố này sẽ xâm nhập vào cơ thể, đi vào hệ thần kinh và gây ra co cứng cơ hoặc co giật cơ khi có kích thích, rất nguy hiểm.

Một trong các biện pháp điều trị và dự phòng uốn ván đó là tiêm phòng vắc xin uốn ván. Chi phí tiêm vắc xin cho phòng uốn ván không đắt, và hiệu quả cao. Nếu mắc uốn ván, việc điều trị lâu dài và tốn kém, chi phí từ vài chục triệu đến cả trăm triệu đồng. Với bệnh nhân Trương Thị A. nói trên, bệnh phục hồi sau 38 ngày điều trị, chi phí gần 90 triệu đồng.

Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp nhận xét, tại BV các ca bệnh uốn ván hiện thường gặp ở người lớn vì đó là những trường hợp chưa tiêm vắc xin uốn ván, hoặc việc tiêm vắc xin lâu năm đã giảm khả năng bảo vệ.

Lâu nay, vắc xin uốn ván được tiêm cho bà mẹ mang thai; sau sinh trẻ vẫn được tiêm phòng uốn ván, vì vậy hiếm gặp uốn ván ở sản phụ và trẻ nhỏ. Nhưng về lâu dài, tác dụng của vắc xin có thể giảm ở người lớn; cần đến các cơ sở y tế để được hướng dẫn tiêm phòng.

Khi bị thương ngoài da, bạn cần vệ sinh và chăm sóc vết thương đúng cách, phòng chống uốn ván:

– Rửa ngay với nước sạch để trôi chất bẩn

– Rửa lại vết thương bằng nước ô xy già từ 3 – 4 lần

– Sát trùng bằng cồn i ốt tại vết thương và quanh vết thương

– Băng vết thương lại (phủ trên gạc) và đến cơ sở y tế gần nhất

– Không tự ý đắp, bôi hoặc bó bất cứ thứ gì khác lên vết thương.

Bệnh khởi phát sau chấn thương, trung bình là 7 ngày; 15% số trường hợp khởi phát bệnh trong vòng 3 ngày và 10% khởi phát bệnh sau 14 ngày. Uốn ván toàn thân là thể bệnh hay gặp nhất. Dấu hiệu điển hình là tăng trương lực cơ và co cứng toàn thân. Lúc đầu tăng trương lực cơ ở các cơ nhai, nuốt khó và cứng hay đau các cơ cổ, vai, lưng. Kế tiếp các cơ khác cũng bị tăng trương lực gây ra cứng bụng và cứng các cơ ở gốc chi; do co cứng liên tục các cơ mặt, tạo ra một vẻ mặt nhăn nhó hay kiểu cười khẩy, cười nhăn, co cứng cơ lưng tạo ra một tư thế lưng cong ưỡn lưng.

Ở một số bệnh nhân xuất hiện các cơn co cứng toàn thân kịch phát, với cường độ mạnh, những cơn đau làm cho bệnh nhân xanh tím và đe dọa ngừng thở. Các cơn này có thể lặp đi lặp lại, có thể là tự phát hoặc do kích thích dù là rất nhẹ. Ở mức độ nhẹ, bệnh nhân chỉ bị tình trạng cứng cơ và có một vài cơn co cứng hoặc không có cơn co cứng nào. Thể vừa có dấu hiệu cứng hàm, khó nuốt, cứng cơ và các cơn co cứng. Trường hợp nặng, bệnh nhân bị nhiều cơn kịch phát, có thể bị sốt (phần lớn không sốt). Các phản xạ gân sâu tăng. Nuốt khó hoặc chướng bụng làm cho bệnh nhân ăn uống khó khăn.

Rối loạn hệ thần kinh thực vật như huyết áp tăng thất thường, hay thường xuyên; nhịp tim nhanh, loạn nhịp tim; sốt cao, vã mồ hôi. Một số biến chứng về tim mạch có thể gặp là hạ huyết áp và chậm nhịp tim, đôi khi xuất hiện ngừng tim đột ngột. Những biến chứng khác là viêm phổi, gãy xương, vỡ cơ, loét do nằm và ly giải cơ vân.

Uốn ván ở trẻ sơ sinh, thường khởi phát trong 2 tuần đầu sau khi sinh với các dấu hiệu: trẻ bỏ bú, cứng cơ và các cơn co cứng; thường là uốn ván toàn thân và dễ dẫn đến tử vong nếu không điều trị.

Uốn ván cục bộ ít gặp, biểu hiện chỉ giới hạn ở các cơ gần vết thương, đây là thể nhẹ, tiên lượng tốt. Uốn ván đầu là một hình thái hiếm gặp của uốn ván cục bộ, diễn ra sau chấn thương đầu hay nhiễm khuẩn tai. Các triệu chứng gồm cứng hàm, rối loạn chức năng một hoặc nhiều dây thần kinh sọ, thường gặp là dây số 7, tỷ lệ tử vong cao.

Nguyên nhân gây bệnh uốn ván

Do bị trầy xát và viết thương tiếp xúc trực tiếp với trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani có trong đất, cát bụi, phân trâu bò ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ …, xâm nhập vào các vết thương, vết xây xước phát triển thành ổ nhiễm trùng gây bệnh uốn ván .

Nh ững ng ười có nguy c ơ m ắc cao :

– Người làm việc ở các trang trại, các nông trường chăn nuôi gia súc và gia cầm

– Người dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại.

– Công nhân xây dựng các công trình.

– Bộ đội và thanh niên xung phong.

Đặc điểm của vi khuẩn gây bệnh:

Vi khuẩn C.tetani là trực khuẩn gram dương, di động, kỵ khí, có hình bầu dục, không có màu, nha bào có mặt ở khắp nơi trên thế giới: trong đất, môi trường kỵ khí, phân súc vật, phân người. Nha bào có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nhưng khi ở dạng các tế bào thực vật, chúng dễ dàng bị khử hoạt tính và nhạy cảm với nhiều kháng sinh như: metronidazol, penicillin…

Nguyên tắc điều trị là diệt trừ vi khuẩn, trung hòa độc tố, ngăn ngừa các cơn co cứng cơ, theo dõi và xử trí hỗ trợ hô hấp. Bệnh nhân phải được chăm sóc trong một căn phòng yên tĩnh để giám sát và theo dõi tim, phổi thường xuyên, hạn chế mọi sự kích thích. Duy trì và bảo vệ đường thở. Xử lý vết thương sạch sẽ, loại bỏ triệt để các dị vật.

– Dùng kháng sinh: tiêu diệt tận gốc tế bào thực vật là nguồn sản sinh ra độc tố. Có thể dùng một trong các thuốc như sau: penicillin 10 – 12 triệu đơn vị tiêm mỗi ngày x 10 ngày; metronidazol 500mg mỗi 6 giờ hay 1g mỗi 12 giờ; dùng clindamycin, erythromycin. Đồng thời phải điều trị đặc hiệu với nhiễm khuẩn do các vi khuẩn khác gây ra.

– Dùng kháng độc tố uốn ván : để vô hiệu hóa độc tố lưu hành trong máu và độc tố ở vết thương nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong; kịp thời dùng globulin miễn dịch uốn ván của người. Tốt nhất là nên tiêm kháng độc tố trước khi điều trị vết thương.

– Kiểm soát các cơn co cứng: Dùng một hay phối hợp các thuốc sau đây: diazepam được sử dụng phổ biến: lorazepam, barbiturat, chlorpromazin. Thuốc phong bế thần kinh cơ kết hợp với thở máy để điều trị các cơn co cứng không đáp ứng với thuốc hoặc các cơn co cứng đe dọa ngừng thở.

– Điều trị hỗ trợ: Mở khí quản có thể kết hợp hoặc không kết hợp với thở máy; bù nước và điện giải; tăng cường dinh dưỡng bằng truyền dịch hoặc cho ăn qua ống thông vào dạ dày; vật lý trị liệu để đề phòng cứng cơ; dùng heparin và các chất kháng đông khác để đề phòng tắc mạch phổi; theo dõi chức năng của thận, bàng quang và ruột; phòng chống chảy máu và loét đường tiêu hóa.

– Dùng vaccin gây miễn dịch chủ động: Tất cả bệnh nhân phải được tiêm vaccin sau khi bệnh đã phục hồi.

CÁCH XỬ TRÍ VẾT THƯƠNG BỊ NHIỄM TRÙNG

Bất kỳ vết thương xuyên qua da nào cũng có thể gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng xảy ra do mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, hoặc qua vật gây ra vết thương (ví dụ như một con dao bẩn) hoặc từ những nguồn khác sau khi gây ra vết thương. Vết cắn, vết cắt, vết đâm chích, vết bỏng và những chỗ nứt, gãy hở đều có thể mang đến nguy cơ nhiễm trùng. Bất kỳ vết thương xuyên qua da nào cũng có thể gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng xảy ra do mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, hoặc qua vật gây ra vết thương (ví dụ như một con dao bẩn) hoặc từ những nguồn khác sau khi gây ra vết thương. Vết cắn, vết cắt, vết đâm chích, vết bỏng và những chỗ nứt, gãy hở đều có thể mang đến nguy cơ nhiễm trùng.

Có nhiều điều bạn có thể thực hiện để giảm nguy cơ nhiễm trùng.

Vi khuẩn uốn ván vào cơ thể như thế nào?

Uốn ván là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván có tên khoa học là Clostridium tetani gây ra. Ở dạng nha bào, vi khuẩn có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nha bào uốn ván có trong đất, cát bụi, phân trâu, bò, ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt khuẩn kỹ, sắt thép gỉ… Nha bào uốn ván xâm nhập vào cơ thể qua vết thương, sau đó thoát nha bào thành thể hoạt động, giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền co cứng đó xuất hiện các cơn co giật. Bệnh nhân bị tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim. Uốn ván có tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90%, đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%.

Những người có nguy cơ mắc bệnh là: người lao động nông nghiệp, làm việc ở các trang trại, các nông lâm trường, chăn nuôi gia súc và gia cầm, dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại, công nhân xây dựng…

Uốn ván là bệnh nguy hiểm dễ gây tử vong, nên mọi người cần cảnh giác phòng tránh bệnh. Phụ nữ mang thai cần tiêm vaccin phòng bệnh uốn ván để phòng uốn ván khi sinh. Khi bị vết thương, đặc biệt vết thương bẩn cần xử lý đúng cách, rửa vết thương bằng nước sạch để trôi chất bẩn; rửa lại vết thương bằng nước ôxy già từ 3 – 4 lần; sát trùng bằng cồn iod tại vết thương và quanh vết thương; dùng băng vô khuẩn để băng vết thương, sau đó đến cơ sở y tế gần nhất để khám và tiêm phòng uốn ván.

Bị Uốn Ván Có Nguy Hiểm Không? Uốn Ván Có Chữa Được Không?

Khi khuẩn Clostridium Tetani tồn tại ở trong đất, trong phân và trong môi trường kém vệ sinh khác. Vi khuẩn này xâm nhập vào cơ thể thông qua vết thương bị đâm thủng hoặc vết cắt da. Nếu vi khuẩn Clostridium Tetani đọng lại ở vết thương, các chất độc của nó sẽ lan khắp ra cơ thể và gây nên các triệu chứng uốn ván. Khi đó các hệ thần kinh, các cơ, tủy sống đều bị can thiệp và rối loạn.

Triệu chứng bệnh uốn ván

Trước khi đi tìm hiểu bị uốn ván có nguy hiểm không chúng ta cần phải nắm được các triệu chứng để dễ dàng nhận biết. Cụ thể các triệu chứng sẽ xuất hiện khoảng 1 tuần sau khi nhiễm trùng ban đầu. Tuy nhiên cũng có những trường hợp xuất hiện muộn sau khoảng 1 đến 1 vài tháng. Các triệu chứng phổ biến:

– Khó nuốt, khó ăn

– Vùng khớp bị co cứng, co thắt khó chịu

– Cổ, ngực, chân tay, bụng bị cứng khó cử động

– Đi nặng ra máu

– Bị tiêu chảy và mất nước

– Xuất hiện triệu chứng sốt

– Cơ thể trở nên nhạy cảm hơn

– Bị ho, đau họng, viêm họng

– Nhịp tim đập bất thường, chủ yếu là loạn nhịp và nhanh hơn

– Người có cảm giác nôn nao, đổ mồ hôi

Nếu trước khi xuất hiện những triệu chứng này bạn từng bị tổn thương da sâu thì đừng chủ quan vì đây chính là dấu hiệu ban đầu của bệnh uốn ván.

Uốn ván có nguy hiểm không?

Có thể bạn chưa biết, bệnh uốn ván là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở một số nước thuộc Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Á,… Theo tổ chức Y tế Thế Giới WHO ước tính, những năm cuối thế kỷ XX, hàng năm có đến hơn 500.000 trẻ em sơ sinh ở các nước đang phát triển bị tử vong do uốn ván. Như vậy ta có thể thấy tử vong do uốn ván khá cao, đặc biệt là uốn ván sơ sinh với tỷ lệ tử vong/mắc lên đến 80%. Đối với trẻ nhỏ và người có tuổi tỷ lệ tử vong/mắc là 10 đến 90%.

Tại Việt Nam, bệnh uốn ván có thể xuất hiện ở bất cứ nơi đâu. Từ năm 1992, chương trình loại trừ uốn ván sơ sinh đa được triển khai nhằm nâng cao ý thức về bệnh uốn ván. Từ năm 2005 trở đi, Việt Nam đã loại trừ được tỷ lệ uốn ván sơ sinh ở quy mô huyện chỉ với 1/1000 trẻ. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại bệnh uốn ván vẫn rất nguy hiểm với những người không được tiêm phòng và chủ quan không dự phòng khi bị thương.

Tất nhiên là uốn ván rất nguy hiểm nhưng mức độ và triệu chứng của uốn ván cần được phân loại để dễ dàng nhận biết hơn.

Là bệnh phổ biến, bệnh nhân có dấu hiệu cứng hàm, cứng cổ cứng lưng, vai,… Bụng, ngực, tứ chi co cứng không thể cử động. Các cơn co cứng toàn thân này càng ngày càng tăng dưới sự kích thích của ánh sáng, tiếng động,… Không chỉ không thể cử động, các cơn co cứng còn có thể gây rách cơ, co thắt hô hấp dẫn đến ngạt thở và gây tử vong.

Đây là bệnh ít gặp. Vậy uốn ván có nguy hiểm khi ở diện cục bộ không? Câu trả lời đây là thể nhẹ, tiên lượng tốt với vùng uốn ván chỉ giới hạn xung quanh vết thương. Tuy nhiên nếu uốn ván cục bộ não thì sẽ nguy hiểm gây rối loạn các dây thần kinh và có tỷ lệ tử vong cao hơn so với các bộ phận khác.

Còn có các gọi khác là uốn ván rốn. Vậy bị uốn ván có nguy hiểm không nếu ở diện sơ sinh này? Câu trả lời là rất nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời bởi vì trẻ sơ sinh có sự đề kháng rất kém. Nguyên nhân của bệnh uốn ván sơ sinh do các vật dụng cắt cuống rốn không được vệ sinh kỹ. Dấu hiệu của bệnh là trẻ không bú được, cơ thể co cứng trong khoảng 3 đến 28 ngày sau sinh.

Biến chứng nguy hiểm của bệnh uốn ván

– Suy thận nặng khi đó cơ bị co thắt, có khả năng dẫn đến sự phá hủy xương khiến protein bị rò vào nước tiểu dẫn đến suy thận cấp.

– Bị động kinh do não bị ảnh hưởng

– Bị suy hô hấp dẫn đến khó thở do thanh quản co thắt, nặng có thể bị tử vong

– Bị viêm phổi nếu hít vào dịch tiết dạ dày gây nhiễm trùng đường hô hấp sau đó dẫn đến tình trạng bị viêm phổi.

– Bị thuyên tắc phổi do mạch máu bị tắc nghẽn nên hệ tuần hoàn và hô hấp bị ảnh hưởng.

– Bị vỡ cơ, gãy xương do co thắt cơ hoặc co giật.

Bên cạnh những triệu chứng kể trên, uốn ván còn có thể gây biến chứng nguy hiểm cho thân nhiệt, huyết áp, nhịp tim,… Vì vậy khi bị uốn ván người bệnh cần được theo dõi, điều trị kỹ để tránh gây hậu quả không mong muốn.

Các biến chứng của bệnh uốn ván còn là nguy cơ khiến các bệnh lý nền tiềm ẩn thêm nặng nề hơn. Cho dù được chữa trị thì các triệu chứng vẫn có thể bị kéo dài theo tháng, năm.

Như vậy, chúng ta đã có câu trả lời giải đáp cho thắc mắc “bị uốn ván có nguy hiểm không”, bây giờ là lúc chúng ta nên tìm hiểu về việc phòng và điều trị uốn ván.

Bị uốn ván có chữa được không?

Phòng ngừa và điều trị bệnh uốn ván

Hầu hết bệnh uốn ván chỉ xuất hiện ở trẻ em sơ sinh và những người chưa từng tiêm vacxin. Vì vậy cách phòng ngừa hiệu quả nhất đó chính là tiêm phòng vacxin đầy đủ. Ngay từ khi còn nhỏ chúng ta cần tiêm vacxin DTaP đây là vacxin phòng uốn và và ho gà. Vacxin này gồm 5 mũi tiêm và bất cứ ai cũng cần được tiêm đầy đủ. Nên tiêm từ khi còn nhỏ trong khoảng 2 đến 6 tuổi.

Bất cứ người nào từng bị thương sâu và đã được điều trị khỏi cũng cần được tiêm đầy đủ. Đối với trường hợp này bệnh nhân có thể sử dụng Globulin miễn dịch uốn ván để ngăn ngừa nhiễm trùng.

Uốn ván tuy là bệnh nguy hiểm, song vẫn có thể chữa khỏi. Tuy nhiên tùy vào từng mức độ sẽ có cách điều trị phù hợp riêng. Thời gian điều trị bệnh uốn ván là khá dài vì thế bệnh cân cần có sự kiên trì và thực hiện đúng những lưu ý khi điều trị để hồi phục sớm.

Đối với bệnh nhân chưa bị biến chứng nặng chỉ cần sử dụng kháng sinh để tiêu diệt vi khuẩn và khống chế tình trạng nguy hiểm. Ngoài ra bệnh nhân cần được nghỉ ngơi yên tĩnh và vệ sinh hàng ngày sạch sẽ.

Đối với những bệnh nhân nhiễm nặng cần được điều trị hỗ trợ như thở máy. Sau khi bệnh nhân phục hồi cần tiêm ngay vacxin để bệnh không bị tái phát.

Bệnh Uốn Ván Và Cách Phòng Ngừa Uốn Ván

Hai con của tôi đã được tiêm chủng hồi vòn nhỏ (tiêm chủng 6 loại vaccin) trong đó dường như đã có chủng ngừa uốn ván (tê ta nốt) . như vậy việc chủng ngừa đó đến bây giờ có còn tác dụng không? nếu còn thì nếu có trầy sướt, hoặc thị thương thì có cần phải tiêm chủng ngay sau khi bị thương không?. Đó là trường hợp chủng ngừa khi còn nhỏ, còn trường hợp không chủng ngừa uốn ván hồi còn nhỏ, thì bây giờ nếu bị thương thì tất nhiên là phải chích ngừa, thế nhưng nếu sau đó lại bị thương nữa, thì lần sau có cần phải chích ngừa nữa không? Xin cảm ơn và kính chào quý vi.

Trả lời: Bệnh uốn ván là gìBệnh uốn ván là bệnh gây nên do trực khuẩn gram (-) có tên là Clostridum tetani, bệnh xuất hiện do vết thương bị nhiễm nha bào uốn ván. Trong cơ thể, nha bào phát triển thành vi khuẩn và sinh sản ra chất độc (độc tố).

Điều kiện yếm khí thúc đẩy vi khuẩn phát triển, vì thế với những vết thương có nhiều nguy cơ có nha bào uốn ván như vết thương do vật bằng sắt thép gỉ, vết thương bẩn, có tiếp xúc với đất cát (vì chủ yếu nha bào có nhiều trong đất và phân) thì sau khi làm sạch, nếu băng kín vết thương sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn uốn ván phát triển.Độc tố uốn ván xâm nhập vào các sợi thần kinh ngoại vi của hệ thần kinh trung ương. Tại đây, nó ức chế sự giải phóng các chất ức chế thần kinh như glycin, GABA gây nênn các triệu chứng co cứng cơ, co giật do tăng trương lực cơ, liệt cứng và bệnh nhân có thể chết do suy hô hấp.

Miễn dịch trong bệnh uốn vánLịch sử tiêm uốn ván rất quan trong trong việc xử lý các vết thương và phòng bệnh uốn ván.

Lịch tiêm văcxin uốn ván như sau:

1/ Văcxin Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván (DPT) được tiêm tổng cộng 5 liều như sau:Vào lúc 2 tháng tuổi; 4 tháng tuổi; 6 tháng tuổi; 15 – 18 tháng tuổi và 4 – 6 tuổi. Nên tiêm cho trẻ dưới 7 tuổi.

2/ Td (Giải độc tố uốn ván cùng với giải độc tố bạch hầu liều thấp) nên tiêm cho người trên 7 tuổi như sau:Tiêm vào 14- 16 tuổi, cứ sau 10 năm tiêm nhắc lại một lần.Tiêm ngừa uốn ván thế nào khi có vết thương

3.1. Nếu vết thương sạch, nhỏ, trong vòng 6 giờ và sâu không dưới 1cm, không bẩn:– Nếu không chắc chắn hoặc tiêm chưa đầy đủ (nhỏ hơn 3 liều) (1): Chỉ dùng Td.– Tiêm đầy đủ (3 hoặc hơn 3 liều) và mới tiêm (2): Không tiêm gì cả, để hở vết thương.– Tiêm đầy đủ nhưng trong vòng 5 năm đến 10 năm kể từ lần tiêm gần nhất (3): không tiêm gì cả, chỉ để hở vết thương.– Tiêm đầy đủ, nhưng lần tiêm gần nhất cách đây 10 năm (4): tiêm Td.

3.2. Nếu vết thương có đất, nước bọt, phân, vết thương xuyên thủng, nát, bị cắn, trên 6 giờ, sâu trên 1cm .

– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (1): Tiêm Td và TIG ở hai vị trí khác nhau.– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (2): Không dùng gì cả. – Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (3): Chỉ dùng Td– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (4): Chỉ dùng Td

Ghi chú:

– Td là giải độc tố uốn ván cùng với giải độc tố bạch hầu liều thấp.

– TIG là globulin miễn dịch chống uốn ván, tạo ra miễn dịch thụ động chống độc tố uốn ván.

– Khi tiêm Td và TIG nên tiêm ở hai vị trí khác nhau, nếu không globulin miễn dịch sẽ gắn với giải độc tố và cả hai mất tác dụng.

Hy vọng thông tin cung cấp sẽ giúp ích cho bạn.

Lưu ý: Chữa bệnh theo chỉ định của Bác sĩ

Bệnh Uốn Ván Và Cách Điều Trị Uốn Ván Hiệu Quả

Là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, uốn ván do trực khuẩn Clostridium tetani và ngoại độc tố hướng thần kinh của nó gây nên. Trực khuẩn uốn ván gây bệnh được tìm thấy lần đầu vào năm 1884.

Mọi đối tượng không phân biệt độ tuổi, giới tính tính đều có thể mắc bệnh uốn ván. Bệnh lây qua da và niêm mạc tổn thương. Nguyên nhân là bởi trực khuẩn uốn ván có trong dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ, cống rãnh, phân trâu bò và gia cầm, cát bụi, đất,… xâm nhập vào các vết thương bị trầy xát sau đó phát triển thành ổ nhiễm trùng gây bệnh uốn ván. Tỉ lệ tử vong do bệnh uốn ván là khá cao, có thể lên đến 90%, đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh. Ngoài ra, những đối tượng như bộ đội và thanh niên xung phong, công nhân xây dựng các công trình, người dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại, người làm việc ở các trang trại, các nông trường chăn nuôi gia súc và gia cầm, người làm vườn cũng có nguy cơ cao mắc uốn ván.

Trung bình 7 ngày sau chấn thương bệnh bắt đầu khởi phát. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp bệnh khởi phát trong 3 ngày hay sau 14 ngày. Bệnh chia ra làm 3 thể là uốn ván toàn thân, uốn ván ở trẻ sơ sinh và uốn ván cục bộ. Trong đó, uốn ván toàn thân là thể bệnh hay gặp nhất với những triệu chứng cơ bản như:

– Cứng cơ hàm, tê lưỡi.

– Co cứng cơ bụng, khó nuốt, cứng cổ.

– Sốt, vã mồ hôi, cơ co thắt.

– Rối loạn hệ thần kinh thực vật.

Dấu hiệu uốn ván ở trẻ sơ sinh gồm có bỏ bú, cứng cơ và các cơ co cứng, nếu không điều trị có thể dẫn đến tử vong. Uốn ván cục bộ ít gặp nhất với biểu hiện rối loạn chức năng một hoặc nhiều dây thần kinh sọ, cứng hàm, tỷ lệ tử vong cao.

Bệnh uốn ván có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm như: viêm phổi, hôn mê, rối loạn nhịp tim, co giật các cơ, co thắt và các nhiễm trùng khác.

Cách phòng ngừa bệnh uốn ván

– Tiêm vắc xin phòng bệnh uốn ván là phương pháp chủ động, hiệu quả và lại ít tốn kém nhất. Người trưởng thành, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, phụ nữ có thai, trẻ sơ sinh,… đều cần được tiêm phòng uốn ván. Trẻ nhỏ thường được tiêm phối hợp 3 loại vắc xin ho gà, uốn ván, bạch hầu. Phụ nữ mang thai lần đầu được khuyến cáo nên tiêm phòng uốn ván vào tuần thứ 27 và tuần thứ 31 của thai kì. Kể cả những người đã từng mắc uốn ván cũng cần phải tiêm chủng vì không có miễn dịch tự nhiên.

– Nếu không may bị thương, vết thương cần phải được cắt lọc, rửa, sát trùng.

– Đến bệnh viện để tiêm phòng uốn ván sau khi đã xử lý sạch vết thương.

– Giữ vết thương sạch sẽ tránh nhiễm trùng đề phòng hoại tử.

– Phụ nữ mang thai dù đã tiêm vắc xin phòng uốn ván vẫn được khuyến cáo thực hành đẻ vô trùng.

Cách điều trị bệnh uốn ván

Theo dõi và xử trí hỗ trợ hô hấp, ngăn ngừa các cơn co cứng cơ, trung hòa độc tố, diệt trừ vi khuẩn là nguyên tắc trong điều trị bệnh uốn ván. Chăm sóc bệnh nhân trong phòng yên tĩnh, hạn chế mọi sự kích thích để giám sát và theo dõi tim, phổi thường xuyên. Đường thở phải được duy trì và bảo vệ. Loại bỏ triệt để các dị vật và xử lý vết thương sạch sẽ.

– Dùng kháng sinh: phương pháp này có thể diêu diệt tận gốc tế bào thực vật. Erythomycin, clindamycin, metronidazol 500mg, penicillin là những thuốc có thể sử dụng. Đồng thời, với nhiễm khuẩn do các vi khuẩn khác gây ra cần phải điều trị đặc hiệu.

– Dùng kháng độc tố uốn ván: dùng globulin miễn dịch uốn ván của người, giúp giảm tỉ lệ tử vong.

– Kiểm soát các cơn co cứng: có thể dùng một hoặc phối hợp các loại thuốc: chlorpromazin, barbiturat, lozazepam, diazepam. Để điều trị các cơn co cứng đe dọa ngừng thở hoặc các cơ co cứng không đáp ứng với thuốc áp dụng thở máy kết hợp với thuốc phong bế thần kinh cơ.

– Điều trị hỗ trợ: phòng chống chảy máu và loét đường tiêu hóa; theo dõi chức năng của thận, bàng quang và ruột; để đề phòng tắc mạch phổi dùng heparin và các chất kháng đông khác; vật lý trị liệu để đề phòng cứng cơ; tăng cường dinh dưỡng; bù nước điện giải; mở khí quản.

– Dùng vắc xin gây miễn dịch chủ động sau khi bệnh đã phục hồi.