Ung thư buồng trứng thường gây tử vong vì nó thường được chẩn đoán muộn. Triệu chứng thường không có ở giai đoạn đầu của bệnh và không đặc hiệu ở giai đoạn tiến triển. Đánh giá thường bao gồm siêu âm, CT hoặc MRI, và đo nồng độ chỉ điểm khối u (ví dụ, kháng nguyên ung thư 125 ). Chẩn đoán bằng phân tích mô học. Giai đoạn dựa vào phẫu thuật. Điều trị cần phải cắt bỏ tử cung, cắt hai phần phụ, cắt bỏ càng nhiều mô tổn thương càng tốt (cytoreduction), và điều trị hoá chất sau đó.
Ở Mỹ, ung thư buồng trứng là ung thư phụ khoa phổ biến thứ 2 (ảnh hưởng đến khoảng 1/70 phụ nữ). Đây là nguyên nhân hàng thứ 5 gây tử vong do ung thư ở phụ nữ, và ở Mỹ sẽ gây 22440 trường hợp bệnh mới và 14.080 trường hợp tử vong vào năm 2017. Tỷ lệ mắc bệnh ở các nước phát triển cao hơn.
Ung thư buồng trứng ảnh hưởng chính ở phụ nữ mãn kinh và sau mãn kinh.
Nguy cơ ung thư buồng trứng tăng bởi
Rối loạn mô sinh dục XY có xu hướng gây ra ung thư tế bào mầm của buồng trứng.
Ít nhất 80% ung thư buồng trứng bắt nguồn từ biểu mô; 75% các loại ung thư này là nang thanh dịch, và khoảng 10% là ung thư biểu mô nhầy xâm lấn. Tại thời điểm hiện tại, gần 27% bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn I có mô nhầy, nhưng <10% ở giai đoạn III hoặc IV.
Khoảng 20% ung thư buồng trứng xuất phát từ tế bào mầm của buồng trứng hay cột sinh dục và tế bào mô đệm hoặc do di căn vào buồng trứng (thường là từ vú hoặc đường tiêu hóa). Bệnh ung thư tế bào mầm thường xảy ra ở phụ nữ < 30.
Các loại ung thư buồng trứng
Ung thư nang thanh dịch (thường gặp nhất)
Ung thư tế bào chuyển tiếp
Ung thư biểu mô không được phân loại
U quái không trưởng thành
Tế bào cột sinh dục và tế bào mô đệm
Các khối u tế bào vỏ – hạt ( Granulosa-theca )
Các khối u tế bào Sertoli-Leydig
Ung thư buồng trứng lan rộng bằng :
Triệu chứng và Dấu hiệu
Ung thư buồng trứng sớm thường không có triệu chứng; một khối u phần phụ, thường rắn, không đều và cố định, có thể được phát hiện tình cờ. Khám vùng chậu và vách âm đạo trực tràng thường phát hiện thấy nốt cứng phát tán rải rác. Một vài phụ nữ bị đau bụng nặng do sự xoắn của khối u buồng trứng.
Hầu hết phụ nữ bị ung thư tiến triển giai đoạn muộn đều có các triệu chứng không đặc hiệu (ví dụ như chứng khó tiêu, đầy bụng, đánh hơi đau, đau lưng). Muộn hơn, thấy đau vùng chậu, thiếu máu, suy kiệt và sưng tấy bụng do buồng trứng to lên hoặc cổ trướng thường xuất hiện.
Tế bào mầm hoặc các khối u mô đệm có thể có các triệu chứng cơ năng (ví dụ, cường giáp, nữ tính hóa, nam tính hóa).
Ung thư buồng trứng bị nghi ngờ ở phụ nữ có những điều sau:
Một khối u buồng trứng nghĩ nhiều đến ung thư ở phụ nữ lớn tuổi. Các nang cơ năng lành tính có thể có dấu hiêu cơ năng giống u tế bào mầm hoặc u mô đệm ở phụ nữ trẻ.
Khối u vùng chậu cộng với cổ trướng thường là ung thư buồng trứng nhưng đôi khi là hội chứng Meigs (một u xơ buồng trứng lành tính với cổ trướng và tràn dịch phổi phải).
Nếu nghi ngờ ung thư sớm, siêu âm được thực hiện trước tiên; những phát hiện sau đây nghĩ tới ung thư:
Nếu nghi ngờ ung thư tiến triển giai đoạn muộn (ví dụ, dựa trên cổ trướng, bụng chướng, hoặc các u nhỏ hoặc không di động được phát hiện khi khám lâm sàng), CT hoặc MRI thường được thực hiện trước khi phẫu thuật để xác định mức độ lan tràn của ung thư.
Các chất chỉ điểm khối u, bao gồm tiểu đơn vị beta của gonadotropin người (beta-hCG), LDH, alpha-fetoprotein, inhibin và CA 125, thường được đo ở những bệnh nhân trẻ tuổi, những người có nguy cơ cao hơn ung thư không phải dòng biểu mô (ví dụ u tế bào mầm , khối u mô đệm). Ở bệnh nhân tiền mãn kinh và sau mãn kinh, chỉ có CA 125 được đo vì hầu hết các loại ung thư buồng trứng ở nhóm tuổi này là các khối u biểu mô. CA 125 tăng lên ở 80% ung thư buồng trứng tiến triển giai đoạn muộn, nhưng có thể tăng nhẹ ở u tế bào biểu mô niêm mạc tử cung, bệnh viêm khung chậu, mang thai, u xơ, viêm phúc mạc, hoặc ung thư phúc mạc không phải buồng trứng.
Khối u vùng chậu hỗn hợp tổ chức rắn và nang ở phụ nữ sau mãn kinh, đặc biệt nếu CA 125 tăng cao, cho thấy nhiều khả năng ung thư buồng trứng.
Sinh thiết thường không được chỉ định thường quy khi bệnh nhân không phẫu thuật. Trong những trường hợp hiếm hoi khác, mẫu được lấy bằng kim sinh thiết chọc vào khối u hoặc bằng chọc hút bằng kim lấy dịch ổ bụng
Đối với các khối u có dấu hiệu lành tính trên siêu âm, không cần phân tích mô học và siêu âm được lặp lại sau 6 tuần. Những khối u lành tính như vậy bao gồm các u quái lành tính (nang bì), nang noãn, và u nội mạc tử cung.
Giai đoạn phẩu thuật FIGO ở buồng trứng, vòi Fallop, và ung thư phúc mạc
Vỏ u bị vỡ trước khi phẫu thuật hoặc khối u trên bề mặt buồng trứng hoặc ống dẫn trứng
Tế bào ác tính trong dịch ổ bụng hoặc trong dịch rửa phúc mạc *
Di căn đại thể lan rộng ra ngoài vùng chậu và kích thước lớn nhất khối u ≤ 2 cm, có hoặc không có dương tính hạch bạch huyết sau phúc mạc
Nếu nghi ngờ ung thư giai đoạn sớm, thì có thể thực hiện phẫu thuật bằng cách nội soi hoặc phẫu thuật nội soi trợ giúp bằng roboic. Nếu không, cần phải mổ một đường rạch giữa bụng, cho phép tiếp cận đầy đủ nhất tới vùng bụng trên. Tất cả các bề mặt phúc mạc, nửa cơ hoành, và các tạng bụng và vùng chậu được kiểm tra quan sát và sờ nắn. Dịch rửa từ khung chậu, rãnh bụng, và vùng cơ hoành phỉa được lấy, và sinh thiết nhiều vị trí của phúc mạc trong vùng chậu trung tâm và 2 bên vùng chậu và trong ổ bụng. Đối với ung thư giai đoạn sớm, mạc nối lớn được lấy đi, và các mẫu hạch bạch huyết vùng chậu và quanh động mạchchur được lấy.
Ung thư cũng được phân loại theo mô học từ 1 (ít ác tính nhất ) đến 3 (ác tính nhất). Phân loại gần đây nhất phân biệt ung thư biểu mô buồng trứng là cấp thấp (G1) hoặc cấp cao (G 2 hoặc G 3).
Không có xét nghiệm tầm soát ung thư buồng trứng. Tuy nhiên, những phụ nữ có nguy cơ di truyền, như những người có BRCA đột biến, nên được theo dõi chặt chẽ.
Mặc dù dữ liệu từ các thử nghiệm lớn chỉ ra rằng CA 125 có độ đặc hiệu cao (lên đến 99,9% trong một nghiên cứu), độ nhạy mức vừa phải (71% trong một nghiên cứu) và giá trị dự đoán dương tính thấp; do đó, CA 125 không được khuyến khích như là một xét nghiệm sàng lọc cho những phụ nữ có nguy cơ trung bình và không có triệu chứng. Sàng lọc ở những phụ nữ không có triệu chứng sử dụng cả siêu âm và đo huyết thanh CA 125 trong huyết thanh có thể phát hiện ra một số trường hợp ung thư buồng trứng nhưng không cho thấy cải thiện kết cục, thậm chí ngay cả đối với các phân nhóm có nguy cơ cao BRCA đột biến).
Tuy nhiên, phụ nữ nên được sàng lọc những bất thường ở BRCA gen nếu tiền sử gia đình của họ bao gồm bất kỳ điều nào sau đây:
Ngoài ra, nếu phụ nữ Do Thái Ashkenazi có một thành viên trong gia đình bị ung thư vú được chẩn đoán trước tuổi 50 hoặc bị ung thư buồng trứng, thì cần kiểm tra sàng lọc những bất thường trong BRCA gen.
Tỷ lệ sống sót 5 năm với điều trị là
Tiên lượng kém hơn khi khối u có độ mô học cao hơn hoặc khi phẫu thuật không thể loại bỏ tất cả mô xâm nhiễm được nhìn thấy; trong những trường hợp như vậy, tiên lượng tốt nhất khi mô ung thư xâm lấn có thể được giảm xuống < 1 cm hoặc lý tưởng là mô tồn tại chỉ còn thấy trên vi thể (phẫu thuật cytoreductive).
Với giai đoạn III và IV, tỷ lệ tái phát khoảng 70%.
Thường hóa trị liệu sau phẫu thuật, thường là với carboplatin và paclitaxel
Phẫu thuật cắt bỏ tử cung và hai phần phụ thường được chỉ định ngoại trừ giai đoạn I ung thư không biểu mô hoặc ung thư biểu mô có độ mô học thấp G1 ở bệnh nhân trẻ tuổi; khả năng sinh sản có thể được bảo tồn bằng cách không cắt bỏ các buồng trứng và tử cung không bị ảnh hưởng. Ở những bệnh nhân lan tràn rộng, phẫu thuật không được chỉ định hoặc có thể được hoãn lại nếu họ có một hoặc nhiều điểm sau đây:
Những bệnh nhân này được điều trị bằng hóa trị liệu tân dược (ví dụ, với carboplatin cộng với paclitaxel). Phẫu thuật đôi khi có thể được thực hiện sau khi hóa trị ban đầu.
Phẫu thuật Cytoreductive thường bao gồm
Vì cytoreduction đi liền với với sự sống sót tăng lên, có thể dự đoán khi nào cytoreduction để tổn thương còn lại là ít nhất, có thể được thực hiện là rất quan trọng, nhưng làm được như vậy là khó khăn; không có tiêu chuẩn thống nhất.
Việc cytoreduction ít có khả năng nếu bệnh nhân có những điểm sau đây:
Các thuật toán dựa trên kết quả hình ảnh trước phẫu thuật (ví dụ, CT, MRI, PET / CT) để đánh giá việc khả năng cytoreduction tối ưu là không thực sự làm được
Phẫu thuật nội soi chẩn đoán trước khi mở ổ bụng có thể giúp bệnh nhân không cần thiết phải phẫu thuật mở bụng mà kết quả cytoreduction vẫn tốt. Phẫu thuật nội soi cho phép các bác sĩ lâm sàng làm sinh thiết mô, làm chẩn đoán xác định và phân tích mẫu sinh thiết. Thực vậy, bệnh nhân không phải là ứng cử viên cho phẫu thuật giảm khối u (cytoreduction) có thể bắt đầu điều trị hóa chất trước. Các phát hiện bằng nội soi cho thấy cytoreduction tối ưu là không thể làm được bao gồm:
Điểm số Fagotti, dựa trên 7 phát hiện nội soi, có thể giúp dự đoán khả năng cytoreduction tối ưu ở bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến triển (xem Bảng: Tính điểm Fagotti để dự đoán khả năng phẫu thuật Cytoreduction tối ưu). Hệ thống chấm điểm này chỉ ra một giá trị 0 hoặc 2 tùy thuộc vào có bệnh hay không ở một vài vị trí nhất định. Nếu bệnh nhân có điểm ≥ 8 thì phẫu thuật cytoreduction tối ưu là rất khó xảy ra. Nếu họ có điểm <8, họ được coi là ứng viên cho phẫu thuật cytoreductive.
Tính điểm Fagotti để dự đoán khả năng phẫu thuật Cytoreduction tối ưu
Được phù hợp từ Fagotti A, Ferrandina G, Fanfani F, et al: Xác nhận triển vọng của mô hình dự báo bằng nội soi để tối ưu hóa phẫu thuật cytoreduction trong ung thư buồng trứng tiến triển Am J Obstet Gynecol 199: 642, e1-642.e6, 2008. doi: 10.1016 / j.ajog.2008.06.052.
Điều trị sau phẫu thuật ung thư buồng trứng theo giai đoạn và loại
Giai đoạn IA hoặc B / G 2 hoặc 3 ung thư
6 đợt hóa trị liệu (điển hình, paclitaxel và carboplatin)
6 đợt hóa trị liệu* như giai đoạn IA hoặc B / cấp 2 hoặc 3
Xem xét cisplatin trong màng bụng và paclitaxel
Giai đoạn II hoặc III khối u mô đệm
Thông thường nhất, hóa chất kết hợp, thường bleomycin, cisplatin, và etoposide
* Hoá trị liệu trong ổ bụng với cisplatin kết hợp với paclitaxel dẫn đến tỷ lệ sống sót lâu hơn so với hóa trị liệu đường tĩnh mạch nhưng có thể có tỷ lệ biến chứng cao hơn.
Ngay cả khi kết quả điều trị bằng hóa trị liệu là đáp ứng lâm sàng hoàn toàn (ví dụ khám sức khoẻ bình thường, huyết thanh CA 125 bình thường , CT scan âm tính vùng bụng và chậu), khoảng 50% bệnh nhân giai đoạn III hoặc IV còn có khối u sót lại. Trong số bệnh nhân có CA 125 cao dai dẳng , 90 đến 95% có khối u còn sót lại. Tỷ lệ tái phát ở bệnh nhân đáp ứng lâm sàng hoàn toàn sau khi hóa trị ban đầu (6 đợt carboplatin và paclitaxel) là 60 đến 70%.
Nếu ung thư tái phát hoặc tiến triển sau khi hóa trị hiệu quả, điều trị hoá chất sẽ được khởi động lại. Các thuốc hữu ích khác có thể bao gồm doxorubicin liposomal, docetaxel, paclitaxel, gemcitabine, bevacizumab, và kết hợp của cyclophosphamide cộng với bevacizumab hoặc gemcitabine cộng với cisplatin. Phương pháp điều trị nhắm mục tiêu với các tác nhân sinh học đang được nghiên cứu.
Đối với bệnh nhân có BRCA1 hoặc là BRCA2 đột biến gien, nguy cơ buồng trứng, và ở mức độ thấp hơn, ung thư vú sẽ giảm nếu phẫu thuật cắt bỏ dự phòng cả hai phần phụ (buồng trứng và vòi trứng) được thực hiện sau khi sinh đủ con. Nguy cơ ung thư dường như thấp hơn với cách tiếp cận này hơn là theo dõi. Bệnh nhân có BRCA1 hoặc BRCA2 đột biến gen nên được chuyển tới một chuyên gia về ung thư phụ khoa để tư vấn.