Trung Gian Truyền Bệnh Dịch Hạch / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Trang Phục Chống Dịch Hạch Thời Trung Cổ

Khó có thể tin rằng đây lại chính là trang phục của các bác sĩ trong suốt thời kỳ “Cái chết Đen”. Về mức độ ghê rợn, có lẽ những bộ trang phục Halloween còn thua xa!

Châu Âu thời kỳ Phục Hưng tới tận thế kỷ XIIIX đã trải qua rất nhiều biến động về cả kinh tế, chính trị lẫn xã hội. Thế nhưng thảm họa khiến cho gần 60 % dân số châu Âu phải bỏ mạng chính là “Cái chết Đen” diễn ra khoảng 3 năm, từ 1348 đến năm 1350.

Được cho là bắt nguồn từ Trung Á với vật chủ là loài chuột, sau này sự bùng phát của nó khiến cho toàn châu Âu nhuốm một mùi chết chóc ảm đạm. Chính đại dịch là nguyên nhân thay đổi châu Âu sâu sắc về chính trị, tôn giáo, kinh tế.

Không những gây ra sức tàn phá không kém bất cứ thiên tai hay chiến tranh nào, đại dịch còn trở nên nguy hiểm hơn khi thời bấy giờ con người gần như bất lực trước nó. Nguyên nhân của “Cái chết Đen” được cho là do chuột Trung Á theo các tàu tới châu Âu.

Trên đường phố, cảnh tượng người chết la liệt hay kêu gào thảm thiết xảy ra như cơm bữa. Bóng tối ảm đạm của cái chết bao trùm toàn châu Âu.

Chính quyền địa phương hay các bác sĩ không thể tìm ra nguyên nhân cũng như cách chữa trị cho đại dịch này, nếu bị lây nhiễm điều đó đồng nghĩa với cái chết. Không có biện pháp khả thi nào có thể hạn chế cơn đại dịch hoành hành.

Khi không có lời giải thích khoa học, con người tìm sang cách giải thích tâm linh, tôn giáo như do các thế lực siêu nhiên gây ra. Tệ hơn, người Do Thái bị trở thành đối tượng đưa ra lý giải nó, họ cho rằng chính người Do Thái đã đầu độc nguồn nước!

Điều này khiến cho người Do Thái phải hứng chịu những đợt tấn công mà đỉnh cao là vào tháng 8 – 1349 cộng đồng người Do Thái ở Mainz và Köln đã bị tiêu diệt. Tháng 2-1394, có tới 2.000 người Do Thái Strasbourg cũng bị người Công giáo tiêu diệt.

Trong đại dịch này, trước sự bất lực trong việc tìm kiếm nguyên nhân cũng như cách chữa trị, các bác sĩ – những người thường xuyên phải tiếp xúc với bệnh nhân chỉ có thể tự phòng ngừa cho bản thân bằng cách mang các mặt nạ.

Được bác sỹ người pháp Charles de Lorme phát minh năm 1619, chiếc mặt nạ này giúp cho các bác sĩ an toàn trước nguy cơ lây nhiễm bệnh từ bệnh nhân cũng như thi thể nạn nhân.

Đó là những mặt nạ hình mỏ chim, chính vì vậy trong lúc cái chết hoành hành khắp nơi trông bề ngoài của các bác sĩ rất đáng sợ. Thay vì là người giúp giành giật sự sống từ tay thần chết, họ lại trông như sứ giả tới từ địa ngục.

Dù không biết nguyên nhân, cách thức lây truyền của đại dịch, nhưng niềm tin phổ biến lúc bấy giờ là bệnh dịch lây lan qua không khí hít thở hay giải thuyết âm khí (miasma theory).

Vậy nên, để đảm bảo an toàn khi tiếp xúc người bệnh, các bác sĩ mặc trang phục áo choàng dài tới đất, chiếc mặt nạ mỏ chim, quanh người được bôi dầu và sáp cùng mũ trùm đầu, bao tay kín mít mang gậy (baton).

Chiếc gậy gỗ sẽ giúp các bác sĩ tránh tiếp xúc với bệnh nhân và trở thành cánh tay thứ ba của họ, đồng thời ngăn cản những người khác cố gắng tiếp cận gần họ.

Nếu nhìn thấy họ trong đêm tối trên một con đường, hẳn bạn sẽ phải thất kinh hoặc bỏ chạy đấy. Nếu cần ý tưởng cho trang phục của lễ Halloween, bạn có thể tham khảo trang phục của các bác sĩ này!

Chiếc mặt nạ cũng như trang phục ấn tượng tới nỗi nó trở thành biểu tượng gắn liền với đại dịch “Cái chết Đen”.

Và điều bí ẩn của lịch sử là rất nhiều bệnh nhân thoát chết nhờ được các bác sĩ – đến dùng chiếc gậy chạm vào người! Đây không phải là truyền thuyết, mà là sự thật, các nhà nghiên cứu khoa học đang nghiêng về giả thiết của “liều thuốc tinh thần”.

Hoàng Nguyễn

Chẩn Đoán Bệnh Dịch Hạch Bệnh Học Bệnh Truyền Nhiễm

Để chẩn đoán bệnh dịch hạch cần dựa vào ba yếu tố: biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng và yếu tố dịch tễ.

Chẩn đoán xác định:

Sốt cao đột ngột

Hạch viêm, rất đau. Đau trước khi nổi hạch.

Dấu hiệu nhiễm độc thần kinh, kết mạc mắt xung huyết, người bứt rứt khó chịu.

Vùng đang có dịch lưu hành, trong xóm làng có người mới bị hoặc đang bị bệnh dịch hạch

Chuột chết tự nhiên rất nhiều và rất nhiều trong xóm và quanh nhà.

Mật độ chuột và tỷ số bọ chét tăng cao.

Soi và cấy có Y.pertis trong hạch, máu ngoại vi, dịch họng.

Huyết thanh chẩn đoán: làm 2 lần cách nhau 10-12 ngày. Lần đầu khi bệnh nhân mới vào viện. hiệu giá kháng thể lần hai tăng gấp 4 lần so với lần một.

Bạch cầu tăng cao trên 16 G/L, đa nhân trung tính tăng cao trên 80%, có khi lên tới 100 G/L

Trong thể nặng:

Dự trữ kiềm giảm thấp

Ure huyết tăng cao

Tiểu cầu giảm, có hiện tượng rối loạn đông máu, đặc biệt CIVD

Chụp Xquang tim phổi có hình ảnh đông đặc phổi, tràn dịch màng phổi hoặc phù phổi.

Chẩn đoán phân biệt:

Viêm hạch khu vực do nhiễm khuẩn ở chi dưới, vùng mông.

Hạch lao, ung thư, giang mai. Không có tính chất viêm của một nhiễm khuẩn cấp tính.

Hạch trong bệnh hạch xoài Nicolas Farve. Hạch ít đau, vỡ mủ chậm. Bệnh do virus gây nên. Khoảng 10-25 ngày sau khi bị lây nhiễm, chỗ virus xâm nhập thấy xuất hiện vết loét bé, vết loét lành nhanh chóng. Hạch xuất hiện ở bẹn liên kết với nhau to bằng quả trứng gà, sờ chỗ cứng chỗ mềm, đau, ít khi vỡ mủ, để lại nhiều lỗ rò ra bên ngoài.

Phản ứng Flei dương tính:

Hạch trong bệnh Tularemia. Do vi khuẩn pasteurella rularensis gây nên. Bệnh nhân sốt cao, rét run. Hạch viêm, đau ít. Không có hiện tượng viêm quanh hạch. Bên cạnh có vết loét ở da, chảy nước đóng vảy. Bệnh ít gặp ở các nước nhiệt đới.

Bệnh Sodoku: vết chuột cắn viêm tấy kèm theo viêm hạch. Hạch viêm rắn, di động, đau ít. Hạch không hóa mủ. Phân lập xoắn khuẩn từ chất dịch viêm tấy hoặc chất hạch.

Thoát vị bẹn thường gặp ở trẻ em.

Apxe cơ đáy chậu.

Hạch cổ vùng dưới xương đòn

Viêm tấy amidal

Bạch hầu

Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn.

Hạch vùng nách: viêm tuyến vú, ung thư vú.

Thể viêm phổi cần phân biệt với:

Viêm phổi, viêm phế quản do bệnh cúm

Viêm phổi do phế cầu: khạc ra đờm lẫn máu tươi màu gỉ sắt

Thể nhiễm khuẩn huyết cần phân biệt với: thương hàn, bệnh sốt rét, ricketsia, các nung mủ sâu.

coppy ghi nguồn: https://drugsofcanada.com

link bài viết: chẩn đoán bệnh dịch hạch

Bệnh Dịch Hạch Ở Chó

Bệnh dịch hạch là bệnh nhiễm khuẩn nguyên nhân do khuẩn ký sinh trùng chi Yersinia pestis gây nên. Tình trạng này xảy ra trên toàn thế giới. Ở Mỹ, khuẩn ký sinh trùng này hay tìm thấy ở vùng tây nam giữa những tháng 05 và 10. Vật chủ mang bệnh là chuột cống, sóc và chuột nhắt.

Vi khuẩn di chuyển nhanh chóng đến các hạch bạch huyết, nơi tế bào bạch cầu được sản sinh. Kết quả là tế bào bạch cầu nhân lên nhanh chóng, hạch bạch huyết có dịch và sưng lên và có thể làm rạn nứt da. Những con chó bị nhiễm vi khuẩn gây bệnh dịch hạch sẽ bị sốt, viêm, và rất đau do các hạch bạch huyết bị sưng trong thời gian dài.

Bệnh này hiếm xảy ra ở chó do chúng có xu hướng có tính kháng cao với vi khuẩn loại này. Tuy nhiên, tất cả các loài hoặc giống chó đều có khả năng mắc bệnh như nhau.

Mặc dù rất hiếm khi xảy ra nhưng dịch hạch có thể lây truyền sang cho con người, và do vậy cần phải cẩn thận để tránh bọ chét và tiếp xúc với dịch cơ thể từ con vật bị nghi ngờ bị nhiễm vi khuẩn Yersinia.

Mèo cũng có thể bị nhiễm vi khuẩn gây bệnh dịch hạch này. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm thông tin về ảnh hưởng của bệnh này đến loài mèo, hãy truy cập vào trang này.

Triệu chứng

Giai đoạn ủ bệnh thông thường với thể hạch là khoảng bảy ngày sau khi con vật bị đốt. Trong trường hợp con vật nhiễm dịch hạch thể phổi, thì phổi sẽ bị nhiễm trùng; và với thể nhiễm khuẩn huyết, thì xuất hiện các triệu chứng giống như ở thể hạch, cùng với xuất hiện tình trạng nhiễm trùng máu toàn thân.

Nguyên nhân

Vi khuẩn Yersinia truyền sang chó khi nó bị bọ chét mang mầm bệnh cắn hoặc khi nó ăn con vật gặm nhấm bị nhiễm khuẩn Yersinia. Một nguyên nhân khác có khả năng gây bệnh là từ môi trường sống của chính con vật đó.

Nếu nhà có nhiều bọ chét hoặc chủ nuôi sống gần vùng hoang dã, nơi chú chó tiếp xúc với loài vật gặm nhấm thì nó có nguy cơ cao bị mắc bệnh dịch hạch. Rác thải, củi và nguồn thức ăn cũng có thể là nguồn gây bệnh.

Chẩn đoán

Bác sỹ thú y sẽ tiến hành chẩn đoán đánh giá tổng thể cho chú chó của bạn, bao gồm các mẫu máu, mẫu nuôi cấy dịch, xét nghiệm thận và gan nhằm đưa ra chẩn đoán xác định. Hệ thống hạch bạch huyết bị sưng là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy con vật đang bị nhiễm khuẩn và các xét nghiệm máu sẽ cho thấy mức độ các tế bào bạch cầu xuất hiện giữa những chất khác, đây được xem là công cụ hỗ trợ để nhận diện vi khuẩn gây bệnh dịch hạch.

Kiểm tra sức khỏe toàn diện cho chú chó sẽ được tiến hành nhằm kiểm tra khu vực bị sưng quanh cổ và đầu, gan và thận, và kiểm tra các dấu hiệu của việc mất nước, sốt, nhiễm trùng phổi hoặc bất kỳ điều gì khác có thể đưa đến kết luận chắc chắn rằng dịch hạch là nguyên nhân làm cho chú chó của bạn bị ốm.

Thuốc sẽ được kê để điều trị các triệu chứng của bệnh, và nếu chú chó của bạn đã được xác định là mắc bệnh dịch hạch hoặc bị nghi ngờ mắc bệnh thì nó sẽ bị cách ly cho đến khi tình trạng này được giải quyết.

Bạn cần phải đưa lịch sử bệnh chi tiết về tình trạng sức khỏe của chú chó của bạn cho bác sỹ thú y, bao gồm các triệu chứng bệnh nền, và các tình huống đã xảy ra có thể là nguyên nhân gây ra tình trạng này.

Điều trị

Chú chó của bạn cần được nhập viện để được điều trị các triệu chứng nghiêm trọng hơn của bệnh và sẽ được điều trị hoàn toàn bằng thuốc kháng sinh. Nếu con vật bị yếu đi và bị mất nước, lúc này nó sẽ cần được truyền dịch tĩnh mạch để giúp bù nước. Bọ trét cũng cần được xử lý. Với những con chó không được điều trị sớm và hiệu quả thì tỉ lệ tử vong sẽ cao.

Chăm sóc

Điều cần làm là kiểm soát bọ chét và loài vật gặm nhấm. Hiện tại chưa có kế hoạch tự kiểm soát căn bệnh này tại nhà, tất cả các trường hợp bị nghi ngờ là nhiễm khuẩn gây bệnh dịch hạch cần phải được báo ngay cho bác sỹ thú y. Tuy nhiên, giữ cho căn nhà không có bọ chét, giữ rác thải, thức ăn và củi ở mức tối thiểu sẽ giúp ích rất lớn trong việc làm giảm nguy cơ xuất hiện dịch hạch.

Chó cần được triệt sản, bởi cách này sẽ giúp làm giảm bản năng săn mồi của nó. Ngoài ra, những chú chó được nuôi trong nhà dường như ít bị tiếp xúc với vi khuẩn Yersinia. Nhưng nếu như bạn không có biện pháp giữ chúng trong nhà thì bạn cần phải đưa ra biện pháp chăm sóc phòng ngừa bọ chét cho chú chó của bạn.

Khi đi đến những nơi có sự xuất hiện của vi khuẩn gây bệnh dịch hạch thì cách tốt nhất là bạn cần phải kiểm soát chú chó của mình bằng dây xích hoặc luôn giữ nó trong môi trường được kiểm soát để hạn chế động vật gặm nhấm hoang dã hoặc bọ chét mang mầm bệnh.

Chẩn Đoán Bệnh Dịch Hạch, Triệu Chứng, Nguyên Nhân Và Điều Trị Dịch Hạch

Bệnh dịch hạch là bệnh lý truyền nhiễm gây ra do vi khuẩn Yersinia pestis. Bệnh diễn tiến cấp tính với biểu hiện nhiễm khuẩn nhiễm độc toàn thân nặng nề. Người nhiễm vi khuẩn gây bệnh từ các loại động vật gặm nhấm như thỏ, chuột,… thông qua vật trung gian là bọ chét nhiễm khuẩn. Ở Việt Nam vector gây bệnh chính là bọ chét Xenopsylla cheopis sống ký sinh chủ yếu trên chuột.

Trên lâm sàng bệnh dịch hạch được chia làm nhiều thể, bao gồm: thể hạch, thể phổi, thể não và thể nhiễm khuẩn huyết; trong đó thể hạch chiếm đa số với tỷ lệ hơn 90%. Thời tiết hanh khô là điều kiện phù hợp với sự phát triển của chuột và bọ chét, cũng là khoảng thời gian dịch hạch bùng phát mạnh nhất. Tuy nhiên dịch hạch vẫn được ghi nhận trong các khoảng thời gian khác trong năm.

Dịch hạch lưu hành ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Từ năm 1989-2003, ghi nhận được 2.845 trường hợp tử vong trong số 38.310 trường hợp mắc đến từ 25 quốc gia trên thế giới. Bệnh gây ra nhiều đại dịch khủng khiếp, cướp đi sinh mạng của hàng trăm triệu người trên thế giới. Ở Việt Nam, từ năm 1960-1970, mỗi năm có khoảng 10.000 trường hợp mắc bệnh, đứng đầu thế giới. Số ca bệnh giảm mạnh chỉ còn khoảng 140 trường hợp mỗi năm trong những năm sau đó. Đến nay gần như không ghi nhận được bất cứ trường hợp mắc dịch hạch nào ở các cơ sở y tế.

Người mắc bệnh dịch hạch có thể thu nhận được miễn dịch sau khi lành bệnh. Tuy nhiên tình trạng miễn dịch này chỉ mang tính chất tương đối, không bảo vệ được người bệnh trước sự tấn công của một lượng lớn các vi khuẩn.

Nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn dịch hạch có tên gọi là Yersinia pestis. Đây là một loại trực khuẩn Gram âm, thuộc họ Enterobacteriaceae. Vi khuẩn gây bệnh dịch hạch có thể bị tiêu diệt ở nhiệt độ 550C trong vòng 30 phút, ở 1000C trong vòng 1 phút và tiêu diệt bởi các thuốc sát khuẩn thường dùng. Yersinia pestis được đặt tên theo người phát hiện ra nó là bác sĩ người Pháp Alexandre Yersin.

Để khẳng định chẩn đoán một trường hợp mắc bệnh dịch hạch, không thể chỉ dựa vào các triệu chứng lâm sàng đã đề cập mà còn phải cần sự phối hợp của các xét nghiệm cận lâm sàng xác định sự hiện diện của vi khuẩn. Các loại bệnh phẩm có thể thu thập để làm xét nghiệm bao gồm mủ từ hạch viêm, máu, đờm và các chất tiết vùng họng, huyết thanh của chuột hoặc bọ chét. Các phương pháp xét nghiệm có thể được chỉ định bao gồm:

Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh dịch hạch bao gồm:

Môi trường sống ô nhiễm, không đảm bảo vệ sinh

Sống trong các khu vực bệnh dịch hạch lưu hành

Thường xuyên tiếp xúc với các loài động vật gặm nhấm

Sức đề kháng của cơ thể suy yếu

Các biện pháp giúp phòng ngừa bệnh dịch hạch:

Diệt chuột: diệt định kỳ mỗi năm từ một đén hai lần, tương ứng vào các khoảng thời gian sinh sản của chuột. Diệt chuột bằng các loại hóa chất như đa liều như Warfarin, Brodifacou. Chỉ sử dụng các dạng thương phẩm đã được cấp phép.

Diệt bọ chét bằng các loại hóa chất được Bộ Y tế cấp phép như permethrin, vectron, diazinon.

Khi có dịch hạch, nên tiến hành kết hợp diệt bọ chét ngay sau khi diệt chuột. Sử dụng hộp mồi Kartman chứa hóa chất dạng bột để kết hợp diệt chuột và bọ chét. Cần kiểm tra hộp thường xuyên để bổ sung hóa chất.

Tuyên truyền giáo dục mọi người thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường: đặt bẫy, nuôi mèo, phá vỡ các hang ổ của chuột; bố trí, sắp xếp hàng hóa, nhất là lương thực thực phẩm hợp lý.

Luôn chuẩn bị đầy đủ thuốc điều trị, hóa chất và nhân lực, sẵn sàng đối phó nếu dịch bệnh xảy ra.

Phòng bệnh chủ động bằng vắc xin EV. Đây là một loại vắc xin sống, hiệu lực bảo vệ không cao. Vắc xin EV được chỉ định cho những người sống trong ổ dịch nhưng chưa có miễn dịch hoặc người phải di chuyển vào vùng có dịch lưu hành.

Với những người tiếp xúc với người mắc dịch hạch cần được theo dõi chặt chẽ và điều trị dự phòng khẩn cấp với: streptomycin 1g/ngày x 5 ngày hoặc tetracyclin 1g/ngày x 5 ngày. Khi có bệnh nhân tử vong, xác chết cần được quấn bằng vải tẩm chloramine 5%, đặt trong quan tài có rắc vôi bột và chôn cất dưới lòng đất ở độ sâu 2m hoặc hỏa táng.

Dịch hạch lây qua đường nào?

Bệnh dịch hạch được lan truyền theo các con đường sau:

Qua trung gian bọ chét: đây là con đường phổ biến nhất, lây qua đường máu và cần có sự có mặt của vật trung gian truyền bệnh. Bọ chét hút máu của vật chủ (chuột). Vi khuẩn gây bệnh dịch hạch từ đó đến nhân lên trong tiền dạ dày của bọ chét làm tắc nghẽn đường tiêu hoá. Khi bọ chét đốt vật chủ mới (người), vi khuẩn sẽ theo vết đốt vào cơ thể vật chủ mới và gây bệnh. Thông thường sự lan truyền bệnh ghi nhận được từ các loài động vật gặm nhấm như chuột, thỏ,… sang người. Tuy nhiên sự lây lan trực tiếp từ người sang người vẫn xảy ra thông qua bọ chét Pulex irritans, ở Nam Phi.

Lan truyền trực tiếp: bệnh dịch hạch có thể lây lan từ vật chủ bệnh sang vật chủ lành mà không cần sự có mặt của vật trung gian truyền bệnh như bọ chét. Các đường lây lan trực tiếp có thể là:

Hô hấp: hít phải vi khuẩn dịch hạch tồn tại trong không khí do tiếp xúc với dịch hạch thể phổi hoặc vật chủ chết vì dịch hạch.

Tiêu hóa: đây là đường lây truyền ít gặp vì vi khuẩn dịch hạch dễ bị tiêu diệt khi đun sôi, nấu chín.

Da, niêm mạc: vi khuẩn dịch hạch có thể xâm nhập trực tiếp qua cả da lành và các vết thương hở trên da.

Triệu chứng dịch hạch khác nhau theo từng thể lâm sàng.

Thể hạch

Đây là thể bệnh phổ biến nhất.

Giai đoạn ủ bệnh trung bình khoảng 2-5 ngày, có thể kéo dài từ vài giờ đến 8-10 ngày, người bệnh chưa có biểu hiện lâm sàng gì.

Đến giai đoạn khởi phát, người bệnh đang khỏe mạnh đột ngột cảm thấy mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, sốt cao, rét run, đau nhức khắp cả người, đau nhiều ở những vị trí sắp sưng hạch.

Ở giai đoạn toàn phát, toàn thân bệnh nhân có biểu hiện nhiễm độc nhiễm trùng nặng:

Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết

Khác với thể hạch, bệnh dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết biểu hiện tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc ngay cả khi hạch ngoại vi chưa viêm. Các triệu chứng lâm sàng có thể gặp phải bao gồm:

Sốt cao, trên 40 độ, kèm rét run

Lích động, mê sảng hoặc li bì trong các trường hợp nặng hơn

Rối loạn hô hấp và tim mạch

Bụng chướng, tiêu chảy

Xuất huyết da, niêm mạc và các cơ quan

Bệnh có tỷ lệ tử vong cao, chết trong vòng 1-2 ngày đầu, được gọi là “dịch hạch tối cấp”

Thể nhiễm khuẩn huyết có thể tiên phát hoặc thứ phát sau dịch hạch thể hạch, thể phổi tiên phát không được điều trị.

Dịch hạch thể phổi

Bệnh khởi phát rất đột ngột sau thời gian ủ bệnh ngắn. Các triệu chứng nhiễm trùng nhiễm độc bắt đầu xuất hiện và nặng dần lên chỉ sau một vài giờ:

Sốt rất cao, trên 40 độ, rét run

Mệt mỏi, nhức đầu

Mạch nhanh, huyết áp giảm

Khó thở, thở nhanh nông. Ho nhiều, có đờm và máu, chứa nhiều vi khuẩn

Dịch hạch thể phổi thứ phát sau thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết thường gặp hơn thể phổi tiên phát, có tiên lượng nặng hơn với tỷ lệ tử vong cao trong vòng 1 đến 2 ngày đầu của bệnh.

Thể da

Bệnh dịch hạch thể da thường chỉ có biểu hiện lâm sàng tại chỗ. Các nốt dát xuất hiện tại vị trí vi khuẩn xâm nhập, sau tiến triển thành mụn nước rồi mụn mủ lẫn máu, bệnh nhân cảm thấy rất đau khi chạm vào. Da xung quanh mụn mủ xung huyết, thâm nhiễm, có gờ cao. Các mụn mủ vỡ để lại vết loét với đáy thâm nhiễm vàng, phủ vảy đen. Các vết loét này lâu lành và chậm liền sẹo.

Dịch hạch có chữa được không?

Bệnh dịch hạch tuy vô cùng nguy hiểm nhưng có thể được điều trị bằng các loại thuốc kháng sinh sẵn có nếu được phát hiện sớm. Nguyên tắc điều trị của bệnh:

Điều trị ngay lập tức khi được chẩn đoán mắc bệnh dịch hạch

Tiến hành thành lập các khu vực cách ly người bệnh: có thể là trạm y tế xã, khoa truyền nhiễm của bệnh viện hoặc một phòng điều trị cách biệt với các khu vực điều trị khác

Bên cạnh việc sử dụng kháng sinh đặc hiệu theo chỉ định của bác sĩ cần kết hợp với điều trị nâng đỡ toàn trạng.

Các biện pháp điều trị nâng đỡ bao gồm:

Bệnh nhân mắc bệnh dịch hạch cần được điều trị nâng đỡ toàn trạng bằng các biện pháp như: truyền dịch, bù nước điện giải, điều chỉnh rối loạn toan kiềm, thuốc trợ tim mạch, hạ sốt, an thần.

Tiến hành hồi sức tích cực khi bệnh nhân có các biểu hiện của choáng, suy hô hấp, suy tuần hoàn, xuất huyết…

Nâng cao sức đề kháng bằng cách cung cấp một chế độ dinh dưỡng đầy đủ, nhiều vitamin và khoáng chất.

Copyright © 2019 – Sitemap