Triệu Chứng Y Học Là Gì / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Lâm Sàng Trong Y Học Là Gì?

Y học lâm sàng hay lâm sàng trong y học là hình thức y học rất phổ biến, nơi thể hiện trách nhiệm của bác sĩ lâm sàng đối với bệnh nhân qua hai nhiệm vụ chính bao gồm : Đưa ra phương pháp điều trị và hiểu được các vấn đề sức khỏe của bệnh nhân để chẩn đoán chính xác và điều trị khỏi bệnh. Do đó, hiểu biết về y học lâm sàng có một vai trò quan trọng trong nghiên cứu sức khỏe nói chung. Vậy lâm sàng trong y học là gì ?

1. Lâm sàng trong y học là gì ?

Trong chữ “lâm sàng” có lâm nghĩa là đến gần, vào một hoàn cảnh nào đó: như lâm nguy, lâm bồn (thai phụ sắp sinh), lâm bệnh, lâm chung (chung = đoạn cuối, sắp đến đoạn cuối cuộc đời, chết). “Sàng” có nghĩa là cái giường, ở đây chỉ giường của người bệnh.

Lâm sàng là từ mà chúng ta dùng để dịch từ tiếng Pháp “clinique” trước đây, lúc các trường y khoa còn dạy bằng tiếng Pháp. Đến khoảng thập niên 1960, dưới thời Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ ở miền Nam, Trường Y khoa Sài Gòn mới bắt đầu chuyển một phần dạy bằng tiếng Việt. Trường Y khoa Đại học Huế dạy bằng tiếng Việt ngay từ lúc mới mở cửa (1957) với khoa trường là bác sĩ Lê Khắc Quyến, một người có khuynh hướng cấp tiến và hoạt động chính trị phe tả hơn là các vị giáo sư của Trường Y khoa Sài Gòn. Lúc trường y chuyển qua dạy bằng tiếng Việt, một trong những từ học đầu tiên là “lâm sàng”. Đa số các từ điển tiếng Việt hay Anh Việt hiện nay đều định nghĩa “lâm sàng” chưa chính xác với cách dùng của từ “clinical” trong y khoa/y tế hiện nay. Trong những tự điển trước 1970 không thấy từ này, và các từ điển dịch “clinic’ cũng không đầy đủ hay sai nghĩa. Có lẽ những nhà làm từ điển không hiểu một cách rõ ràng về cách tổ chức của ngành y tế.

Tiếng Pháp, “clinique”, tiếng Anh “clinical” chỉ những gì xảy ra bên giường của người bệnh, nói giản dị là lúc khám bệnh. Do từ Hy lạp cổ “kline” là cái giường. Hippocrates (460-377 TTC), sinh ra ở đảo Kos, gần 100 năm sau khi Khổng tử được ra đời, ông tổ ngành Tây Y tiên phong trong ngành chữa bệnh căn cứ trên quan sát người bệnh trực tiếp và lý luận trên cơ sở của những “triệu chứng” mà mình thấy, nghe, sờ và ngửi được. Hippocrate bị ảnh hưởng bởi triết lý của Pythagore (nhà toán học Hy Lạp). Theo đó “Thiên nhiên” gồm 5 yếu tố (elements): nước, đất, gió và lửa, do đó học thuyết thời đó cho rằng cơ thể chúng ta bao gồm năm chất lỏng (fluids) hay dịch (humors) khác nhau tạo nên: mật đen, mật vàng, đàm (nhớt) và máu. Người chữa bệnh có nhiệm vụ tái lập sự quân bình giữa các chất dịch đó. Có lẽ cũng tương tự nhưng chắc không chi tiết như bên Đông phương, muốn giữa sự quân bình giữa âm và dương, lục phủ (Tiểu Trường, Ðại Trường, Ðởm, Vỵ, Bàng Quang, Tam Tiêu) và ngũ tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận).

Tuy nhiên, điểm quan trọng ở đây là lý luận căn cứ trên những điều quan sát trên người bệnh, khác với cách chữa bệnh căn cứ trên niềm tin tôn giáo, hay ma thuật. Y học cũng như khoa học thời cổ đại (antiquity) của Hippocrate bị thất truyền sau khi văn minh Hy lạp và La Mã suy tàn. Qua thời trung cổ, cách chữa bệnh có tính cách tôn giáo và tín điều là chính. Y khoa lâm sàng chỉ phát triển trở lại sau thời kỳ Phục Hưng Renaissance), với sự khám phá lại các kiến thức “cổ điển” của thời cổ đại, loại bỏ quan niệm về các dịch (“humors”) và các ngành cơ thể học, hóa học, phẫu thuật được phát triển. Qua thế kỷ thứ 17, kiến thức về sinh lý (cách cơ thể được điều hành như thế nào) mở rộng, và người ta chú trọng nhiều hơn đến phần thực hành y khoa, bên giường bệnh (bedside clinical practice), nghĩa là quan sát các biểu hiện của cơn bệnh, dùng những kiến thức về cơ thể học, sinh lý học để suy xét nguồn gốc bệnh.

Chúng ta có thể bàn thêm một chút về cách làm việc “lâm sàng” của các thầy thuốc đông y ở Đàng Trong (của Chúa Nguyễn) vào thế kỷ thứ 17 được linh mục Alexandre de Rhodes, người tiên phong được tạo ra chữ viết quốc ngữ, kể lại. Phương pháp “lâm sàng” của họ khác phương pháp của tây phương: thầy thuốc “bắt mạch” rồi chẩn đoán trước, không để bệnh nhân khai bệnh trước như trong tây y. Người thầy thuốc được học theo kiểu cha truyền con nối và có nhiều sách bí truyền. Thầy thuốc bắt mạch bằng 3 ngón tay (cho 3 phần cơ thể: đầu, dạ dày và bụng), mất chừng 15 phút đắn đo suy tính, rồi tiết lộ cho bệnh nhân biết anh ta bị những triệu chứng gì, bệnh ra sao. Nếu thầy thuốc nói không đúng thì bị đuổi đi, không trả tiền vì bệnh nhân hết tin tưởng, nếu nói đúng thì bệnh nhân tin tưởng để cho chữa bệnh mình, nhưng chữa hết xong mới trả tiền. Theo kinh nghiệm bản thân của Alexandre de Rhodes thì các bác sĩ Việt Nam thời đó không thua gì các bác sĩ ở châu Âu.

Sau mấy ngàn năm, y khoa của Hippocrate chuyển biến và phát triển thành Tây Y hiện nay, trên nền tảng của quan sát, suy luận, thực nghiệm, và vai trò quan trọng của các khoa sinh-y học (biomedical sciences).

Hiện nay những gì liên hệ trực tiếp đến người bệnh thì được gọi là lâm sàng (clinical). Ví dụ bác sĩ hỏi câu chuyện về bệnh tình (tiền sử bệnh, history), ghi nhận những triệu chứng (symptoms) như bệnh nhân khai mệt, đau đầu, buồn nôn, có tính cách chủ quan và khám trên người bệnh nhân để phát hiện những dấu hiệu (signs) khách quan như da có mụn, tim đập loạn nhịp, khối u trong bụng là những biểu hiện ghi nhận khách quan do người không phải người bệnh quan sát mà ghi nhận. Những dấu hiệu này được gọi là dấu hiệu lâm sàng (clinical signs). Chẩn đoán bệnh căn cứ vào quá trình khám đó được gọi là chẩn đoán lâm sàng (clinical diagnosis). Tuy nhiên, bác sĩ còn có thể có những phương tiện để tìm hiểu thêm về bệnh nhân.

Cách đây mấy chục năm, phòng mạch bác sĩ có thể có những phương tiện đơn giản như: máy ly tâm để quan sát cặn nước tiểu qua kính hiển vi, lấy đàm, nhớt để nhuộm màu và tìm trong đó có vi trùng hay không, hoặc có máy soi quang tuyến (X Ray) , ví dụ để xem bệnh nhân có nám phổi hay không, vv và thường những xét nghiệm đó bác sĩ hay y tá tự làm lấy, gần chỗ người bệnh nằm, cho nên tiếng Pháp gọi những kết quả thử nghiệm đó chính là “paraclinique” (do:para=bên cạnh, clinique=giường bệnh). Chúng ta dịch là “cận lâm sàng”. Tuy nhiên, trong tiếng Anh, ít khi dùng từ “paraclinical”.

Ở Mỹ, thông thường người ta thường ít dùng từ paraclinical. Bác sĩ thế hệ trẻ có khuynh hướng giảm bớt phần hỏi, khám trực tiếp người bệnh và chú trọng hơn (theo một số người thì là quá nhiều) quá nhiều vào kết quả “cận lâm sàng”, tốn kém so với trước nhiều. Bác sĩ thường nói đến những ngành “cận lâm sàng” như: “lab work”= thử máu, thử vi trùng (ví dụ cấy máu [blood culture] xem có vi khuẩn mọc không), thử di truyền [genetic testing], biopsy (sinh thiết).

“Pathology” (ngành bệnh học, tìm các thay đổi của bệnh gây ra trên các mô, tế bào quan sát bằng kính hiển vi, ngày xưa ở Sài Gòn gọi tắt là “ana-path, vì tiếng Pháp anatomie pathologique = cơ thể bệnh lý.

Các hoạt động như chụp quang tuyến, làm chụp CT, MRI, siêu âm (ultrasounds), được gộp thành trong khoa “hình ảnh y khoa” (medical imaging). Bác sĩ quang tuyến, phần lớn đọc các phim, hình ảnh, không “đụng” tới bệnh nhân, cũng có thể có những hoạt động lâm sàng; ví dụ bác sĩ quang tuyến can thiệp (interventional radiologist) có thể nhờ CT, siêu âm hướng dẫn chọc vào ngực, bụng bệnh nhân để hút mủ, lấy mẫu sinh thiết để thử nghiệm.

Một trong những phương pháp giảng dạy y khoa là các “hội nghị đối chiếu lâm sàng và bệnh học” (tiếng Pháp: confrontation clinico pathologique). Các bác sĩ, nội trú trình bày các nhận xét về lâm sàng và đề nghị một chẩn đoán bệnh (diagnosis) suy luận từ các quan sát đó. Sau đó, bác sĩ về bệnh học (pathologist, cơ thể bệnh lý) trình bày kết quả của phòng xét nghiệm như sinh thiết (biopsy) hay kết quả giải phẫu tử thi (autopsy), nghĩa là đáp án của câu hỏi ban đầu là người bệnh mắc bệnh gì, nguyên nhân gì đã gây ra các triệu chứng lâm sàng.

2. Một số từ hay dùng

Chết lâm sàng (clinical death), tim bệnh nhân ngừng đập (cardiac arrest), bệnh nhân ngưng thở. Tuy nhiên, với các phương pháp hồi sức hiện nay, có thể đảo ngược “chết lâm sàng” trong một số trường hợp (CPR: cardiopulmonary resuscitation).

Clinic: phòng khám bệnh tư, phòng ngoại chẩn của một bệnh viện. Đôi khi clinic là một cơ quan lớn gồm cả nhiều bệnh viện, phòng khám, phòng thí nghiệm, ví dụ Mayo Clinic do bác sĩ William Mayo và các người con mở ra ở Rochester, Minnesota cuối thế kỷ thứ 19, và hiện nay là một trong những hệ thống chữa bệnh và khảo cứu y khoa lớn nhất thế giới, nhân viên gồm trên 50,000 người và gần 4000 bác sĩ mọi ngành. Cleveland Clinic ở Cleveland, bang Ohio là một bệnh viện giáo dục y khoa vĩ đại, lợi tức gần 10 tỷ đô la/ năm, và chi nhánh ở nhiều tiểu bang Mỹ, Canada và Trung Đông. Lúc đầu, chỉ là một phòng mạch tư của một bác sĩ giải phẫu vào cuối thế kỷ thứ 19.

Theo nghĩa rộng, clinic cũng được dùng trong một số lĩnh vực ngoài y tế: như “legal clinic”chỉ những văn phòng giải quyết , tư vấn về các vấn đề luật pháp.

Ở Mỹ, người khám và chữa bệnh không phải luôn luôn là bác sĩ y khoa: có những người chuyên về tâm lý trị liệu (psychologist), nurse practitioner; nhân viên điều dưỡng được huấn luyện khám bệnh và điều trị, thường dưới sự giám sát của bác sĩ y khoa, phụ tá bác sĩ “physician assistant” (PA). Từ “clinician” có lúc được dùng để bao gồm hết các nhóm người có nhiệm vụ “lâm sàng” khám và chữa bệnh ở trình độ, lĩnh vực khác nhau.

Trong bệnh viện Mỹ, sinh viên y khoa được thực hành khám bệnh nhân trong 2 năm cuối gọi là 2 năm lâm sàng (clinical years, clinical rotations). Sau khi đã hoàn tất 2 năm đầu về khoa học căn bản, gọi là 2 năm tiền lâm sàng (preclinical years).Các bác sĩ sẽ tình nguyện dạy không thù lao cho sinh viên y khoa và bác sĩ đang thực tập (interns, residents, fellows/ hay doctors in training) được trường y khoa phong tước vị giáo sư phụ tá giáo sư (clinical assistant professor), phó giáo sư (clinical associate professor), giáo sư lâm sàng (clinical professor). Clinical = “lâm sàng” để phân biệt với ban giảng huấn cơ hữu toàn thời gian, chính quy (tenure track faculty) ăn lương của trường, nặng về khảo cứu hơn là dạy học.

3. Khám lâm sàng là gì?

Khám lâm sàng là hoạt động thăm khám ban đầu theo dõi tình trạng sức khỏe và phát hiện dấu hiệu bất thường thông qua quan sát, nghe, sờ, gõ… và chưa có can thiệp bằng xét nghiệm hay chẩn đoán hình ảnh.

Khám lâm sàng là bước khám đầu tiên trong quy trình khám bệnh. Phương pháp này được sử dụng khi thăm khám tất cả các bệnh. Khám lâm sàng giúp bác sĩ tìm hiểu được các yếu tố tác động tới người bệnh như môi trường, độ tuổi hay nguy cơ mắc bệnh…, đồng thời hỗ trợ bác sĩ chỉ định các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết để đưa ra kết luận về tình trạng bệnh. Bước khám này cho biết tình trạng bệnh ban đầu, nguy cơ mắc bệnh và có thể tìm ra nguyên nhân gây bệnh.

4. Khám cận lâm sàng là gì?

Khám sức khỏe cận lâm sàng là một khâu nằm trong quy trình khám sức khỏe định kỳ, nó bao gồm nhiều kỹ thuật như: Chụp X-quang, Siêu âm, chụp cắt lớp vi tính (CT), chụp cộng hưởng từ (MRI),…Kỹ thuật y học cận lâm sàng là sự hỗ trợ đắc lực cho các bác sĩ trong quá trình chẩn đoán và điều trị bệnh.

Để có thể chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh và điều trị hiệu quả, ngoài việc thăm khám lâm sàng, các bác sĩ còn phải kết hợp các xét nghiệm cùng việc sử dụng những kỹ thuật y học cận lâm sàng để chẩn đoán bệnh, chẩn đoán để phân biệt với các bệnh khác, đồng thời giúp người bệnh theo dõi diễn biến, đánh giá hiệu quả điều trị và tiên lượng bệnh.

Khám cận lâm sàng giúp chẩn đoán bệnh chính xác, bao gồm:

Xét nghiệm máu: giúp bác sĩ phát hiện các bệnh lý về máu; kiểm tra và phát hiện các bệnh lý thận, tiết niệu; các bệnh về gan; phát hiện các rối loạn chuyển hóa glucose, phát hiện, theo dõi bệnh tiểu đường; phát hiện virus viêm gan B; virus viêm gan C; xét nghiệm HIV; tầm soát và theo dõi bệnh gout; kiểm tra lượng mỡ máu nhằm phát hiện rối loạn mỡ máu: bệnh tăng lipid máu, nguy cơ xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim.

Xét nghiệm nước tiểu 10 thông số: giúp phát hiện các bệnh về hệ sinh dục, bệnh tiết niệu, bệnh lý thận – tiết niệu.

Soi tươi dịch âm đạo giúp phát hiện các bệnh viêm nhiễm sinh dục ở nữ.

Điện tâm đồ: giúp phát hiện tổn thương cơ tim và rối loạn nhịp tim.

Chẩn đoán hình ảnh: Chụp X-quang tim phổi, siêu âm ổ bụng.

Nếu như trước đây, mọi người thường chỉ gặp bác sĩ khi bị bệnh thì ngày nay, việc chăm sóc, khám sức khỏe tổng quát định kỳ, phòng ngừa bệnh tật một cách chủ động đang trở nên phổ biến. Điều này là nhờ vào trình độ học thức, chất lượng cuộc sống đã được nâng cao hơn và mọi người đã được trao quyền tiếp cận chủ động về sức khỏe của chính mình. Đồng thời, việc khám bệnh định kỳ và thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng đôi khi sẽ giúp phát hiện ra bất thường mà chính bản thân chưa nhận thấy được. Từ đó, mọi người sẽ có chẩn đoán sớm, giúp điều trị bệnh sớm cũng như nhận được các lời khuyên y tế về một lối sống lành mạnh, giảm nguy cơ mắc các bệnh lý thường gặp. Như vậy, với các dịch vụ y tế thăm khám và làm xét nghiệm định kỳ, mọi người sẽ có điều kiện, cơ hội để sống lâu hơn, khỏe mạnh hơn.

Chính vì những lợi ích nêu trên, với mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn diện, Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec đã đưa ra các gói khám sức khỏe tổng quát và thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng phù hợp với từng đối tượng. Khách hàng sẽ được bác sĩ trực tiếp khai thác tiền sử bệnh bản thân và gia đình, đo huyết áp, chỉ số khối cơ thể, khám sức khỏe, thực hiện các xét nghiệm sàng lọc cũng như các tư vấn trong từng tình huống.

Với đội ngũ bác sĩ chuyên nghiệp, trình độ cao và giàu kinh nghiệm, cơ sở vật chất hiện đại, hệ thống máy móc xét nghiệm tiên tiến, tối tân, Vinmec xứng đáng là một địa chỉ khám chữa bệnh tin cậy, chất lượng đẳng cấp quốc tế của mọi người và của mọi gia đình.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.

Triệu Chứng Lâm Sàng Bệnh Zona Y Học Bệnh Da Liễu

Tổn thương cơ bản bệnh zona

Lúc đầu là những dát đỏ hơi gồ cao trên mặt da, sau đó xuất hiện các mụn nước nhỏ như hạt tấm, hạt đậu xanh riêng rẽ hoặc liên kết với nhau thành từng đám, thành vệt, dải theo hướng của dây thần kinh.

Các mụn nước có thể tập trung thành bọng nước bờ không đều. Da trên mụn nước thường căng và nền da xung quanh viêm đỏ

Dịch của mụn nước và bọng nước lúc đầu trong sau đó đục dần cỏ mủ do bội nhiễm vi khuẩn

Có thể thấy các tổn thương thứ phát như trợt, loét tiết dịch do mụn nước, bọng tự xẹp xuống hoặc dập vỡ. Khi tổn thương khô đóng vảy tiết dày. Sau khi vảy tiết bong đi, có thể để lại sẹo. Sẹo là một trong ba di chứng của bệnh zona.

Các hạch vùng lân cận tổn thương da thường bị viêm sưng to và đau.

Vị trí tổn thương: ở bất kì vùng da nào của cơ thể và ở một nửa bên người, đôi khi có mụn nước ở bên đối diện. mụn nước bên đối diện thường gặp trong các trường hợp suy giảm miễn dịch, người bị nhiễm HIV… thương tổn có thể lan toàn thân. Niêm mạc có thể bị tổn thương trợt, loét, làm bệnh nhân đau rát.

Triệu chứng cơ năng và toàn thân

Triệu chứng thường gặp ở các bệnh nhân bị bệnh zona. ở bệnh nhân zona đau ở các giai đoạn sau:

Trước khi nổi thương tổn ở da: bệnh nhan có cảm giác đau và rát tại một vùng da, có khi đau sâu, đau nhức nhối, người bệnh mệt mỏi.

Khi có thương tổn ở da: đau tại vùng da bị tổn thương, đau nhức nhối, như châm chích, đau ở hạch lân cận hoặc đau sâu ở nội tạng. Zona vùng đầu mặt thường đau hơn ở các vùng khác, những người lớn tuổi đau nhiều hơn. Đau kéo dài suốt thời gian bị bệnh.

Khi tổn thương đã khỏi: khi tổn thương của da đã lành những bệnh nhân vẫn bị đau và gọi là đau sau zona. Bệnh nhân đau nhói từng cơn ở da, cơ hoặc đau sâu vào trong nội tạng kèm thao ăn, ngủ kém. Đau kéo dài từ vài tuần đến vài tháng và khỏi ở đa số bệnh nhân, song cũng có những bệnh nhân bị đau kéo dài hàng năm. Đặc biệt là tổn thương zona ở vùng đầu mặt.

Ngoài ra có thể ngứa rát bỏng hoặc rối loạn cảm giác vùng da bị tổn thương. Rối loạn cảm giác vùng da bị tổn thương cũng là một trong những di chứng thường gặp của bệnh zona: bệnh nhân có cảm giác nóng bỏng tự nhiên liên tục, tăng hoặc giảm cảm giác.

Bệnh nhân có thể sốt, người mệt mỏi và mất ngủ cũng thường gặp.

Bệnh Viện Đại Học Y Khoa Đại Học Thái Nguyên

Rubella virus lây truyền qua không khí, người bị nhiễm bệnh truyền virus cho người khác thông qua những giọt nước nhỏ từ đường hô hấp trên. Quá trình diễn biến của nhiễm Rubella như sau:

– Giai đoạn ủ bệnh: kéo dài khoảng 2-3 tuần sau khi bị nhiễm, virus Rubella tăng sinh ở đường hô hấp trên và trong máu. Đây là giai đoạn dễ lây bệnh, có thể phát hiện virus Rubella trong dịch cuống họng và trong máu.

– Giai đoạn toàn phát: 1-3 ngày tiếp theo là giai đoạn phát ban và xuất hiện các triệu chứng lâm sàng như sốt, đau khớp, sưng hạch; bắt đầu xuất hiện kháng thể IgM và IgG; virus bị biến mất nhanh khỏi dịch cuống họng và máu.

– Giai đoạn hồi phục: trong giai đoạn này IgM tăng cao nhất trong khoảng 1-2 tuần rồi giảm dần và biến mất trong khoảng 1-2 tháng; trong khi đó IgG tiếp tục tăng trong khoảng 1 tháng, rồi tồn tại suốt đời, giúp cho cơ thể chống tái nhiễm Rubella.

Bệnh Rubella ở trẻ em thường diễn biến nhẹ, có khi không biểu hiện triệu chứng lâm sàng, thường hồi phục sau 1-3 ngày. Ở người lớn, bệnh thường biểu hiện rõ ràng hơn, có thể kéo dài hơn, song thường tự khỏi. Tuy nhiên, ở phụ nữ mang thai, nhất là trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sảy thai hoặc gây hội chứng Rubella bẩm sinh cho trẻ bao gồm mù mắt, câm điếc, bệnh tim bẩm sinh và chậm phát triển trí tuệ . Vì vậy, việc chẩn đoán xác định nhiễm Rubella, đặc biệt ở những phụ nữ những tháng đầu mang thai là vô cùng quan trọng.

2. Xét nghiệm

Chẩn đoán nhiễm Rubella thường dựa vào các xét nghiệm miễn dịch định lượng Rubella IgM và IgG. Hiện nay, việc xác định chính xác nhiễm Rubella qua định lượng các kháng thể Rubella IgM và Rubella IgG đặc hiệu. Tuy nhiên, kỹ thuật này khá tốn kém và không nhiều cơ sở y tế có thể thực hiện được. Việc sử dụng test Rubella nhanh để phát hiện kháng thể trong máu được sản xuất bởi hệ thống miễn dịch của cơ thể để đáp ứng với một bệnh nhiễm trùng do virus rubella.

Có hai loại kháng thể rubella là IgM và IgG. Kháng thể Rubella IgM xuất hiện trong máu sau khi tiếp xúc virus rubella. IgM tăng lên và đạt đỉnh trong máu trong khoảng 7 đến 10 ngày sau khi nhiễm rubella, sau đó giảm dần kéo dài trong vài tuần. Các kháng thể rubella IgG xuất hiện chậm hơn IgM nhưng có thể tồn tại trong máu suốt đời.

Kỹ thuật sắc ký miễn dịch để phát hiện kháng thể virus rubella đang được thực hiện tại khoa Xét nghiệm bệnh viện trường Đại học Y khoa Thái Nguyên.

* Biện luận kết quả

– Nếu IgM âm tính và IgG âm tính: kết quả này có thể gặp trong 2 tình huống:

+ Bệnh nhân chưa từng bị nhiễm Rubella, là người có thể có nguy cơ bị mắc Rubella; nếu chưa có thai, cần được tiêm chủng, sau đó 3 tháng mới có thể thụ thai; nếu đã có thai, cần được theo dõi chặt chẽ để xử lý nếu bị nhiễm Rubella.

+ Bệnh nhân bị nhiễm Rubella nhưng đang trong giai đoạn ủ bệnh, chưa tạo được các kháng thể IgM và IgG. Nếu nghi ngờ có thể thực hiện lại xét nghiệm sau đó khoảng 2-3 tuần.

– Nếu IgM dương tính và IgG âm tính:

Trường hợp này bệnh nhân mới bị nhiễm virus rubella, mới có IgM đáp ứng. Nên làm lại xét nghiệm IgM và IgG sau đó 2 tuần. Nếu IgM vẫn dương tính và xuất hiện IgG, chắc chắn bị nhiễm Rubella. Nếu IgM vẫn dương tính và IgG âm tính, kết quả IgM là không đặc hiệu.

– Nếu IgM âm tính và IgG dương tính: kết quả này có thể gặp trong 2 tình huống:

+ Nếu nồng độ IgG tăng đáng kể, IgM âm tính và không biểu hiện triệu chứng nhiễm Rubella chứng tỏ bệnh nhân đã được miễn dịch do bị nhiễm Rubella trước đó hoặc đã được tiêm phòng. Những phụ nữ này không có nguy cơ bị nhiễm Rubella trước sinh.

+ Nếu nồng độ IgG thấp thì có thể bệnh nhân mắc bệnh Rubella, IgG xuất hiện sớm trong khi IgM còn chưa xuất hiện. Cần làm lại xét nghiệm Rubella IgM và IgG sau đó khoảng 1 tuần, nếu Rubella IgM dương tính và IgG tăng lên thì bệnh nhân mắc bệnh Rubella cấp.

– Nếu IgM dương tính và IgG dương tính:

+ Nếu có các triệu chứng lâm sàng trước đó thì có thể chẩn đoán bệnh nhân bị nhiễm Rubella cấp tính. Nếu nghi ngờ có thể làm thêm xét nghiệm ái tính với Rubella IgG (Rubella IgG avidity).

+ Nếu không có dấu hiệu lâm sàng, IgM (+) tính có thể do kháng thể IgM tồn tại dai dẳng hoặc IgM không đặc hiệu, cần làm thêm xét nghiệm ái tính với Rubella IgG.

3. Phòng ngừa

Hiện nay đã có vaccin hiệu quả phòng ngừa Rubella, thường được tiêm chung một mũi gồm vaccin MMR (measles, mumps, rubella) ngừa cả sởi, quai bị và Rubella. Phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ cần được tiêm chủng phòng Rubella nếu chưa từng bị nhiễm Rubella.

4. Chỉ định thực hiện test Rubella nhanh

Phụ nữ mang thai hoặc đang có kế hoạch mang thai.

Chỉ định bắt buộc nếu phụ nữ mang thai có dấu hiệu nhiễm rubella.

Khoa Xét nghiệm (Sưu tầm)

Triệu Chứng Nóng Gan Và Cách Khắc Phục Theo Y Học Hiện Đại

Quay lại trang trước

Hiện tượng nóng gan gây nổi mụn, sạm da, ngứa ngáy da,… theo cách nghĩ thông thường chỉ là những biểu hiện bề nổi bên ngoài nhưng ngầm báo động tình trạng tổn thương gan bên trong và đòi hỏi có sự can thiệp kịp thời. Tìm hiểu về nóng gan và cách khắc phục đúng theo khoa học là việc cần làm để cấp tốc “giải cứu” lá gan của bạn.

I. Nóng gan là bệnh gì?

Nóng gan là thuật ngữ trong dân gian. Khi gan bị bệnh, cơ thể sẽ xuất hiện các triệu chứng nổi mẩn ngứa, mụn nhọt, nóng bức trong người.

Tuy nhiên, về mặt ngôn ngữ y học không có định nghĩa nóng gan cụ thể. Chứng nóng gan theo y học hiện đại được hiểu là khi người bệnh uống nhiều bia rượu, các chất kích thích; ăn nhiều đồ ngọt, dầu mỡ… gan sẽ phải làm việc nhiều hơn , thậm chí quá tải để loại bỏ các chất có hại ra khỏi cơ thể.

Đồng thời, các chất độc hại tổng tấn công vào gan này làm kích hoạt tế bào Kupffer (làm nhiệm vụ miễn dịch ở tại gan) một cách thái quá, gây phóng thích ra các chất gây viêm Interleukin, TNF-α, TGF-β… . Hậu quả tế bào gan bị tổn thương, suy giảm khả năng giải độc của gan, tích tụ độc tố trong cơ thể và phát sinh các triệu chứng gan nóng mà dân gian hay gọi.

Nóng gan triệu chứng thường gặp ở nhiều người

Do đó, không phải cứ bị nổi nhiều mụn, bứt rứt, khó ngủ, chán ăn, mệt mỏi… thì gọi là nóng gan, rồi tùy tiện dùng các loại nước uống thanh nhiệt, thuốc mát gan , giải độc không rõ nguồn gốc. Nổi mụn nhiều trên người, trên mặt, mệt mỏi, chán ăn rất có thể là gan đang trục trặc hoặc mắc một bệnh lý nào đó, việc dùng các loại thuốc chưa được nghiên cứu khoa học không chỉ làm tổn thương gan mà còn làm “lu mờ” triệu chứng tạm thời, “che lấp” đi bệnh gan thật sự.

II. Triệu chứng nóng gan

Theo PGS Nguyễn Trọng Nghĩa (GV ĐH Y dược TP.HCM), người bị nóng gan sẽ phải thường xuyên phải đối mặt với các triệu chứng khó chịu như:

1. Da nổi mẩn ngứa

Một khi chức năng gan suy giảm, khả năng thanh lọc và đào thải chất độc cũng giảm theo làm chất độc tích tụ lại, sau đó xâm nhập vào da và có những triệu chứng bộc phát như nổi những mảng mẩn đỏ hoặc hồng ban lan rộng, cảm giác ngứa râm ran. Sau vài tiếng, triệu chứng nóng gan sẽ giảm dần và biến mất khi nhiệt độ cơ thể ổn định trở lại. Một số trường hợp nóng gan nổi mẩn ngứa , nóng gan nổi mụn mặt, mụn nhọt,…

Nhiều người khi lầm tưởng triệu chứng này là do bị dị ứng nên tự ý mua thuốc về điều trị, kết cục là gan càng bị độc tố từ các loại thuốc này tấn công hơn.

Da nổi mẩn đỏ là triệu chứng điển hình của bệnh nóng gan

2. Nổi mề đay

Biểu hiện nóng gan thường thấy là nổi các vùng mề đay trên bề mặt da, sần cục, dày, các mảng mề đay có thể gây ngứa hoặc không tùy từng cơ địa.

3. Vàng da

Một dấu hiệu nóng gan thường thấy là thay đổi màu da, các sắc tố trên da có sự “biến hình” bởi sắc tố mật bilirubin tích tụ trong máu cao, da bắt đầu chuyển sang màu vàng khi chức năng gan rơi vào trạng thái suy yếu.

Nếu màu da càng ngả màu vàng chứng tỏ lượng sắc tố bilirubin càng nhiều. Những bộ phận có thể thấy rõ nhất là kết mạc của mắt, lòng bàn tay, bàn chân và niêm mạc lưỡi. Ngoài ra, việc nhiệt độ cơ thể tự nhiên thay đổi cũng là dấu hiệu gan nóng. Lúc này, bạn thường xuyên cảm thấy bụng dạ nóng nực và khó chịu một cách bất thường.

4. Hơi thở có mùi

Thật chẳng dễ chịu gì khi miệng bạn phát ra mùi hôi khiến người xung quanh xa lánh, bản thân cũng chẳng vui vẻ gì! Gan bị tổn thương nên sản sinh ra nhiều ammonia làm cho hơi thở có mùi khó chịu, kèm theo đó là cảm giác chán ăn, mệt mỏi, tiêu hóa kém, sụt cân,… ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống và sức khỏe của người bệnh.

Người bị nóng gan thường xuất hiện mùi hôi trong hơi thở

5. Nước tiểu có màu vàng đậm

Khi chức năng gan bị suy giảm, độc tố tồn đọng, để giải phóng bớt gánh nặng, gan buộc phải đẩy độc tố xuống thận và kết quả là nước tiểu có màu vàng sẫm và đậm hơn bình thường.

Ngoài ra, nước tiểu có màu vàng đậm có thể do gan bị tổn thương, khiến chất Bilirubin (là một chất màu vàng được tạo ra trong quá trình phá vỡ các tế bào hồng cầu của cơ thể) bị rò rỉ vào máu và nước tiểu. Có thể nói Bilirubin gây ra nước tiểu có màu vàng đậm là dấu hiệu của bệnh gan , trong đó có bệnh nóng gan.

6. Mắt có quầng thâm, nhức mắt, mỏi mắt

7. Các triệu chứng khác

Một số triệu chứng nóng gan khác phải kể đến như đau bụng, sưng ở chân, mắt cá chân, mệt mỏi mãn tính, nôn hoặc buồn nôn, da dễ bầm tím, chảy máu chân răng, chảy máu cam, mất ngủ…

Các biểu hiện nóng gan chỉ diễn ra thỉnh thoảng, không kéo dài, mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng người bệnh những triệu chứng này lặp đi lặp lại thường xuyên thì nguy cơ suy giảm chức năng gan mạn tính, gan nhiễm mỡ, xơ gan…

III. Nguyên nhân gây gan nóng

Việc tìm hiểu và xác định nguyên nhân gây hiện tượng nóng gan là cách làm đơn giản, giúp bạn tự kiểm tra xem bản thân có thực sự nằm trong đối tượng bị nóng gan không và kịp thời đưa ra được giải pháp tuyệt vời giúp gan phục hồi chức năng bình thường cụ thể:

– Uống rượu, bia và thường xuyên dùng đồ uống chứa cồn: Yếu tố có thể khiến bạn tăng nguy cơ bị tổn thương gan, gây nóng gan nhiều nhất là uống rượu quá mức. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, dùng nhiều hơn 8 ly rượu mỗi tuần đối với phụ nữ và hơn 15 ly mỗi tuần đối với nam giới có khả năng gây hại cho gan, làm suy giảm chức năng gan.

Uống nhiều rượu bia căn nguyên hàng đầu gây bệnh nóng gan

– Chế độ ăn uống thiếu khoa học, dung nạp nhiều chất độc hại: Cuộc sống hiện đại, các thực phẩm bẩn , thiếu an toàn và thức ăn nhanh “lên ngôi” góp phần không nhỏ khiến gan tích tụ chất độc. Ngoài ra, thường xuyên ăn nhiều thức ăn dầu mỡ, cay nóng, nhiều đường và muối tạo áp lực nặng nề lên gan, tăng tích trữ chất béo triglyceride, gây ra tình trạng nóng gan, gan nhiễm mỡ, viêm gan,…

– Lạm dụng thuốc điều trị: Một trong những nhiệm vụ quan trọng của gan là chuyển hóa các chất, do đó hầu hết các loại thuốc điều trị đều chuyển hóa qua gan và thận. Cụ thể, nếu bạn thường xuyên lạm dụng thuốc giảm đau, chống viêm, kháng sinh… gan và thận có thể bị suy giảm chức năng và tăng nguy cơ mắc các bệnh lý nguy hiểm, trong đó có nóng gan.

– Thói quen sinh hoạt thiếu điều độ: Thời kỳ hoàng kim của kỹ thuật số, nhiều người được mệnh danh là “cú đêm” mà quên cả thời gian cho bản thân nghỉ ngơi. Trong khi đó, gan và túi mật giải độc vào khoảng thời gian từ 23h đến 5h. Nếu bạn thường xuyên thức khuya và không ngủ đủ giấc thì độc tố dễ tích tụ trong gan, gây suy giảm chức năng gan và sinh bệnh nóng gan.

Thức khuya thường xuyên khiến chức năng gan suy giảm và gây ra nóng gan

– Một số yếu tố khác: Gan nóng có thể xảy ra do phải thường xuyên làm việc và tiếp xúc với hóa chất, môi trường ô nhiễm, bụi mịn, thời tiết quá nóng bức khắc nghiệt.

Các yếu tố có thể khác nhau ở mỗi đối tượng nhưng có một nguyên lý sinh bệnh chung mà rất ít người biết, theo Hiệp hội Nghiên cứu các bệnh lý gan của Hoa Kỳ (AASLD) chỉ rõ,vị trí “cửa ngõ” là xoang gan – nơi dẫn máu ra, vào gan, tế bào Kupffer liên tục bị kích hoạt, cụ thể khi cơ thể hàng ngày bị tấn công bởi các yếu tố độc hại từ bia rượu, thực phẩm bẩn, hóa chất, thuốc chữa bệnh… thì gan chính là cơ quan “chịu trận” đầu tiên, lúc này tế bào Kupffer trong gan bị các chất độc hại tấn công liên tục và cuối cùng buộc phải phóng tích các chất gây viêm như TNF- α, TGF-β, Interleulin…

IV. Vậy đâu là cách trị nóng gan theo khoa học?

Bạn nên nhớ, quá trình giải độc tố cho gan, trị nóng gan là một hành trình dài, đòi hỏi sự kiên trì và tỉnh táo. Do đó, đừng mong chờ có một loại tiên dược uống vào là giúp lá gan khỏe mạnh ngay. Điều trị bất kể bệnh nào, không chỉ riêng nóng gan để chữa trị tận gốc phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc khoa học, thay đổi từ thói quen hàng ngày, sở thích ăn uống, tiết chế những nhu cầu không cần thiết, bổ sung những loại thực phẩm tốt cho gan,…

Đặc biệt một nhiệm vụ lớn lao hơn là phải tìm giải pháp kiểm soát tốt hoạt động của tế bào Kupffer, giữ chúng luôn hoạt động trong “ngưỡng” an toàn như vậy bạn mới đạt được thành công trên con đường “chinh chiến”, giải cứu và bảo vệ lá gan. Những việc làm thiết thực cần phải thực hiện cấp tốc để giải cứu lá gan của bạn:

1. Thay đổi thói quen ăn uống, sinh hoạt là việc làm cấp thiết hàng đầu để trị nóng gan

– Các thực phẩm vàng – bổ trợ trị nóng gan

Để trị nóng gan, trước hết bạn phải bổ sung những thực phẩm tốt cho gan trong bữa ăn hàng ngày. Người bị nóng gan nên tăng cường các loại rau xanh, hoa quả và ngũ cốc nguyên hạt mà chưa qua tinh chế. Các loại rau, thảo dược có vị đắng, tính mát làm dịu gan, thanh lọc cơ thể như: rau má, rau đắng, khổ qua,… Ngoài ra, khi bị nóng gan có thể uống thêm các loại trà thiên thiên có tính mát như râu ngô, bạc hà, lá dâu, lá sen và các loại đỗ như đỗ xanh, đỗ đen, đỗ đỏ,…

– Hạn chế các loại thức ăn nhiều dầu mỡ, cay, nóng gây hại cho gan

Món ăn chiên rán, đồ ăn nhanh, nội tạng động vật … khiến gan tích tụ mỡ và độc tố. Bánh ngọt, kẹo, chè… các món ăn ngọt không chỉ tăng nguy cơ bệnh tim mạch, máu nhiễm mỡ, mau già… mà còn gây trầm trọng hơn tình trạng viêm, mỡ hóa gan. Vì vậy, cần hạn chế ăn những món ăn này để giữ lá gan “sạch”, khỏe.

Hạn chế các loại thức ăn nhanh, thức ăn cay, nóng gây hại cho gan

Đặc biệt, không ăn nhiều hoặc hạn chế đồ ăn cay, mặn như: kim chi, gia vị cay (ớt, tiêu) … cũng có thể được xem là cách chữa bệnh nóng gan hiệu quả nhất thông qua việc thay đổi thói quen ăn uống sinh hoạt. Bia rượu, các chất kích thích, thuốc lá, cà phê… đòi hỏi gan phải lọc thải vất vả, dẫn đến mệt mỏi và phát sinh các triệu chứng nổi mề đay, mẩn ngứa.

– Không ăn quá 70gr thịt để hạn chế nóng gan

Để trị nóng gan bạn nên hạn chế protein từ động vật để hạn chế nguy cơ “nóng gan”. Trong các loại thịt, đặc biệt là thịt đỏ chứa nhiều chất béo no và cholesterol. Khả năng phân giải của gan với các chất này kém hơn nhiều so với chất béo có nguồn gốc thực vật. Do đó, nên hạn chế ăn thịt để giảm tải gánh nặng cho gan nhờ đó đem lại hiệu quả trị nóng gan.

Bộ Y tế Vương quốc Anh khuyến nghị mọi người nên ăn không quá 70 gr thịt đỏ hoặc thịt chế biến mỗi ngày. Tại Mỹ, Viện Nghiên cứu Ung thư cũng khuyến cáo nên ăn tối đa 510 gr thịt đỏ/tuần, tương đương khoảng 72gr mỗi ngày (theo Mail Online). Nguồn cung cấp protein tốt nhất mà không gây “nóng gan” gồm cá thức ăn có nguồn gốc thực vật như các loại đậu đỗ, rau họ đậu.

Không ăn quá 70gr thịt đỏ để hạn chế nóng gan

– Hạn chế uống nhiều rượu, bia hoặc cắt hẳn càng tốt

Rượu, bia có khả năng phá hủy tế bào gan, kích hoạt tế bào Kupffer phóng thích các chất gây viêm nhanh hơn bất cứ loại thực phẩm độc hại nào khác. Do đó, hãy là người “chủ nhân” thông thái, giúp gan được bảo vệ tốt hơn, ngoài ra bạn nên uống đủ nước, 1 ngày khoảng 2 lít nước và cẩn thận khi dùng các loại thuốc vì có thể gây hại cho gan, tham khảo ý kiến bác sĩ khi bạn gặp tình trạng “nóng gan” do dùng thuốc điều trị.

– Xây dựng lối sống lành mạnh

Lập ra thời khóa biểu làm việc, nghỉ ngơi khoa học và kiên trì thực hiện. Hạn chế thức khuya, do thức khuya sẽ làm tăng sinh các phản ứng oxy hóa tại gan, những phản ứng này sản sinh ra các chất trung gian độc hại kích hoạt tế bào Kupffer hoạt động quá mức tạo ra các phản ứng miễn dịch, phóng ra các chất gây viêm.

Sắp xếp thời gian làm việc và nghỉ ngơi hợp lý để gan và các cơ quan khác trong cơ thể có thời gian nghỉ ngơi và tái tạo năng lượng làm việc.

Ngoài ra, dành thời gian tối thiểu 30 phút trong ngày để luyện tập thể dục thể thao giúp nâng cao sức khỏe gan, lựa chọn các bộ môn nhẹ nhàng, tốt cho gan như: đi bộ, tập gym, thiền, yoga,….

Tuy vậy, để có chế độ dinh dưỡng cũng như vận động, sinh hoạt phù hợp cho từng trường hợp nóng gan cụ thể, thay vì chỉ tham khảo các thông tin chung chung, người bệnh có thể đến các trung tâm chuyên về dinh dưỡng và vận động như Nutrihome (hiện là cơ sở khám, tư vấn, điều trị dinh dưỡng, y học vận quy mô lớn đầu tiên tại Việt Nam) để được tư vấn và dùng sản phẩm hỗ trợ phù hợp.

2. Kiểm soát tế bào Kupffer – Giải pháp ưu tiên hàng đầu cho người nóng gan

V. Cách trị nóng gan phản khoa học bạn cần tránh

1. Cách trị nóng gan bằng thuốc Tây

2. Thuốc Nam chữa bệnh nóng gan

Hoàng Khanh

HEWEL – Tăng cường giải độc, chống độc, bảo vệ gan