Triệu Chứng Y Học Cổ Truyền / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Y Học Cổ Truyền Việt Nam

Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

Là một bệnh rối loạn chuyển hóa gây tăng lượng acid uric trong huyết thanh. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu là khớp viêm tái phát nhiều lần, dị dạng khớp, nổi u cục dưới đa và quanh khớp, bệnh tiến triển gây sỏi thận do acid uric, bệnh thận do gút. Thường gặp ở nam giới tuổi trung niên.

Xuất hiện đầu tiên trong sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’.

Đông y còn gọi là ‘Lịch Tiết Phong, ‘Bạch Hổ Phong’, ‘Bạch Hổ Lịch Tiết’.

Nguyên nhân bệnh lý theo y học cổ truyền

Goutt là một bệnh tăng acid uric huyết thanh với những biểu hiện đau khớp cấp. Lượng acid uric huyết tăng do tăng sản xuất lượng acid uric hoặc do thận đào thải kém hoặc do cả hai. Theo YHCT, thống phong là do ngoại tà xâm nhập cơ thể gây tắc nghẽn kinh lạc, khí huyết ứ trệ tại khớp gây đau co duỗi khó khăn. Bắt đầu bệnh còn ở cơ biểu kinh lạc, bệnh lâu, tà khí vào gân xương gây tổn thương tạng phủ, chức năng của khí huyết tân dịch rối loạn, tân dịch ứ trệ thành đàm, khí huyết ngưng trệ thành ứ, đàm ứ kết mà hình thành các u cục tôphi quanh khớp, dưới da. Bệnh tiến triển lâu ngày gây tổn thương đến can thận, làm biến dạng các khớp và tái phát nhiều lần.

Y văn cổ không có ghi chứng gút nhưng có chứng “thống phong” là chỉ chứng thống tý lâu ngày khó khỏi. Cho nên bệnh thống phong có thể qui thuộc phạm trù chứng tý trong đông y.

Triệu chứng lâm sàng:

Bệnh có 2 thể lâm sàng.

l- Cấp tính: Cơn đau sưng tấy dữ dội đột ngột của khớp bàn chân, ngón cái, thường và0 ban đêm (cũng có thể ở các vị trí khác: ngón chân khác, cổ chân, gối…) khớp đỏ xẫm, ấn đau nhiều, khớp hoạt động hạn chế, kéo dài 2, 3 ngày hoặc 5, 6 ngày rồi khỏi không để lại di chứng nhưng rất dễ tái phát.

2. Mạn tính: Thường do bệnh cấp tính chuyển thành, biểu hiện viêm nhiều khớp mạn tính (khớp nhỏ, vừa và đối xứng) tái phát nhiều, thời gian ổn định rút ngắn, khớp bệnh đau nhiều kéo dài, tại khớp có thể sưng nóng đỏ không rõ nhưng thường cớ sốt, khớp dị dạng, co duỗi khó khăn, xuất hiện nốt u cục quanh khớp, dưới da, vành tai (hạt tôphi) mềm, không đau, trong chứa một chất trắng như phấn. Bệnh tiến triển lâu ngày gây tổn thương thận (viêm thận kẽ, sạn tiết niệu, tiểu máu, suy thận cấp, mạn).

Chẩn đoán và phân biệt:

* Chẩn đoán chủ yếu dựa vào:

– Triệu chứng lâm sàng (như trên) chú ý hạt Tôphi, sạn thận gút, khớp gút to, thường chủ yếu là xương bàn chân tay sưng đau không đối xứng.

Acid uric huyết tăng rõ, cao hơn 7mg%.

– Tiền sử bệnh (cách tiến triển các cơn trước).

– Tiền sử gia đình.

– Cần phân biệt với:

+ Viêm khớp dạng thấp (không có acid uric cao, khớp sưng đối xứng…)

+ Tăng acid uric huyết đơn thuần (khớp bình thường), tăng acid uric thứ phát (suy thận…).

Biện Chứng Luận Trị

Biện chứng luận trị cần chú ý đến giai đoạn phát triển của bệnh. đối với thể cấp tính chủ yếu dùng phép thanh nhiệt thông lạc khu phong trừ thấp, đối với thể mạn tính thường kèm theo đàm thấp, ứ huyết, hàn ngưng, nên tùy chứng mà dùng các phép hóa đàm, trừ thấp, hoạt huyết thông lạc, ôn kinh, tán hàn. Đồng thời chú ý đến mức độ hư tổn của âm dương, khí huyết, can thận mà bồi bổ thích hợp.

Đối với thể cấp tính: Biểu hiện chính là thể phong thấp nhiệt; đột ngột khớp ngón cái (thường gặp nhưng cũng có thể các khớp nhỏ khác) sưng nóng đỏ đau, không đụng vào được, kèm theo sốt, đau đầu, sợ lạnh hoặc bứt rứt, khát nước, miệng khô, tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn, mạch Sác.

Điều trị: Thanh nhiệt, thông lạc, khu phong, trừ thấp. Dùng bài: Bạch Hổ Gia Quế Chi Thang Gia giảm: Thạch cao 40 – 60g (sắc trước), Tri mẫu 12g, Quế chi 4 – 6g, Bạch thược, Xích thược đều 12g, Dây Kim ngân 20 – 30g, Phòng kỷ 10g, Mộc thông, Hải đồng bì đều 10g, Cam thảo 5 – 10g, sắc uống ngày l thang, trong thời gian sưng đỏ nóng sốt.

Trường hợp thấp nhiệt nặng (Sưng tấy đau nhiều gia thêm dây Kim ngân 40 – 50g, Thổ phục linh,Ýù dĩ (tăng trừ thấp) hoặc gia thuốc hoạt huyết như Toàn Đương qui, Đan sâm, Trạch lan, Đào nhân, Hồng hoa, Tằm sa để hóa ứ chỉ thống, trường hợp có biểu chứng thêm thêm Quế chi, Độc hoạt, Tế tân để giải biểu, tán hàn chỉ thống.

+ Đối với thể mạn tính: nhiều khớp sưng to đau kéo dài, co duỗi khó, tại khớp không đỏ nóng rõ nhưng đau nhiều, dị dạng kèm theo tê dại, da tím sạm đen, chườm nóng dễ chịu, mạch Trầm Huyền hoặc Khẩn, lưỡi nhợt, rêu trắng là triệu chứng của hàn thấp ứ trệ.

Điều trị: Khu hàn, thông lạc, trừ thấp, chỉ thống. Dùng Chế Ô đầu, Tế tân đều 4 – 5g (sắc trước), Toàn Đương qui 12g, Xích thược 12g, Uy linh tiên 10g, Thổ phục linh 16g, Tỳ giải 12g, Ý dĩ nhân 20g, Mộc thông 10g, Quế chi 4 – 6g, sắc uống.

Trường hợp sưng đau nhiều khớp cứng, mạch Hoãn Hoạt, rêu lưỡi trắng bẩn dày là triệu chứng đàm trọc ứ trệ, thêm chích Cương tàm, Xuyên sơn giáp, Tạo thêmùc thích, Hy thiêm thảo, Hải đồng bì, để tăng tác dụng hoạt lạc, trừ đàm. Đau nhiều do huyết ứ (đau như dao đâm, mạch sáp, lưỡi tím bầm) thêm Ngô công, Toàn yết, sao Diên hồ sách để hoạt huyết chỉ thống.

Trường hợp thận dương hư (liệt dương, đau mỏi lưng gối, chân tay lạnh, sợ lạnh, lưỡi bệu, mạch Trầm, Hoãn vô lực thêm Bổ cốt chỉ, Nhục thung dung, Cốt toái bổ để bổ thận kiện cốt định thống, có triệu chứng khí huyết hư thêm Hoàng kỳ, Đương qui, Nhân sâm, Bạch truật…

Trên lâm sàng thường gặp:

+ Thấp Nhiệt Uẩn Kết: Khớp sưng đỏ, đau, nóng. Phiền táo, khát, nước tiểu vàng, đỏ, đầu đau, sốt, sợ lạnh, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Nhu, Sác.

Điều trị: Tuyên thanh, lợi thấp nhiệt, thông lạc, chỉ thống. Dùng bài Niêm Thống Thang gia giảm: Đương quy, Bạch truật, Đảng sâm, Hoàng cầm đều 10g, Thương truật, Trư linh, Trạch tả, Phòng kỷ đều 12g, Long đởm thảo (sao), Khổ sâm, Tri mẫu, Thăng ma đều 6g, Ý dĩ nhân (sống), Xích tiểu đậu đều 15g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Chẩn Liệu Học).

+ Đờm Ngưng Trở Lạc: do nhiều đờm ẩm gây nên, các khớp nặng, cử động khó khăn, khớp mềm hoặc cứng, có khi sốt cao, đầu đau, lo sợ, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế, Sáp.

Điều trị: Hòa doanh, khứ ứ, hóa đờm, thông lạc. Dùng bài Đào Hồng Tứ Vật Thang gia giảm: Đương quy, Xích thược, Đào nhân, Mộc qua đều 10g, Hồng hoa, Uy linh tiên, Xuyên khung đều 6g, Dã xích đậu, Triết bối mẫu đều 12g, Ty qua lạc, Tạo giác thích, Giáp châu đều 4,5g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Chẩn Liệu Học).

+ Phong Thấp Hàn, Huyết Ứ: Bệnh phát cấp, khớp đau cứng một chỗ, lạnh thì đau nhiều, gặp ấm, nóng dễ chịu hơn, có thể bị biến dạng khớp và cứng khớp, khó cử động. Dù sưng nhưng không thấy nóng, đỏ, lưỡi trắng mỏng, mạch Hoạt, Trầm, Huyền hoặc Nhu, Hoãn.

Điều trị: khu phong, trừ thấp, ôn kinh hoạt lạc. Dùng bài Kê Huyết Phụ Tử Niêm Thống Thang: Kê huyết đằng, Nhẫn đông đằng đều 50g, Thương truật, Kinh giới huệ

Một Số BÀI THUỐC KINH NGHIỆM

+ Địa Hoàng Du Linh Phương (Hồng Dụng, bệnh viện Hồng Thập Tự Hàng Chău tỉnh Triết Giang): Sinh địa, Hoàng kỳ, Đơn sâm, Ích mẫu thảo, Tang ký sinh đều 15g, Sơn thù, Phục linh, Trạch tả đều 10g, Tần giao 20g, sắc uống.

Thận dương hư, chân lạnh, lưng gối lạnh đau thêm Tiên linh tỳ, Tiên mao đều 10g, tỳ hư bụng đầy, tiêu lỏng thêm Đảng sâm, bạch truật đều 10g, miệng khô tiểu vàng mạch Sác thêm Hoàng cầm, Hoàng bá hoặc Sơn chi đều 10g, can dương thịnh đau đầu, váng đầu thêm Câu đằng, Cúc hoa, Thiên ma đều 10g.

Kết quả lâm sàng: Trị 6 ca, tốt 2 ca (huyết áp hạ xuống bình thường, creatine xuống l,8mg%, acid uric huyết dưới 6mg% hết triệu chứng lâm sàng) tiến bộ 4 ca (triệu chứng giảm, huyết áp hạ dưới 150/90mmHg, acid dưới 7mg%) (Hiện Đại Nội Khoa Học).

+ Thống Phong Phương (Trương Huệ Thần).

1-Thương truật 9g, Hoàng bá, Ngưu tất, Hải đồng bì, Khương hoàng, Uy linh tiên đều 12g, Hy thiêm thảo 15g, Mao đông thanh 30g, Hắc lão hổ, Nhặp địa kim ngưu đều 30g, ngày l thang sắc uống. Trắc bá diệp, Đại hoàng đều 30g, Hoàng bá, Bạc hà, Trạch lan đều 15g tán bột cho mật và nước vừa đủ thành hồ đắp ngoài.

2- Quế chi, Xuyên khung đều 10g, Khương hoạt, Tang chi, Tần giao, Thương truật đều 12g, Ngưu tất, Đơn sâm, Phòng kỷ đều 15g, Cam thảo 6g sắc nước uống. Đại hoàng, Hoa hòe, Tích tuyết thảo đều 30g sắc nước thụt đại tràng.

Bài (1) có tác dụng thanh nhiệt trừ thấp trị chứng thống phong cấp thể thấp nhiệt.

Bài (2) có tác dụng tán hàn trừ thấp tý, thông lạc, chỉ thống trị chứng thống phong cấp thể hàn thấp.

– Kết quả lâm sàng: Trị 12 ca, 11 ca khớp sưng đều có giảm mức độ khác nhau, có 4 ca hết đau, giảm đau rõ, 5 ca, có giảm đau 2 ca. Đau giảm trong thời gian từ 7 – 40 ngày, bình quân 25 ngày (Hiện Đại Nội Khoa Học).

+ Xuyên sơn giáp (đau bên trái dùng đắp bên phải và ngược lại) sao vàng tán bột, Trạch lan 9g, sắc với rượu uống.

Bài thuốc dùng cho chứng Tiễn phong thống (tục gọi là Quỷ tiễn đả) hoặc đau đầu, gáy, vai, lưng, chân tay gân xương đau (Hiện Đại Nội Khoa Học).

+ Diên hồ sách, Nhục quế, Ngũ linh chi, Đương qui, Bạch chỉ, Phòng phong đều 3g. sắc uống (thêm Mộc hương 3g mài uống càng tốt) (Hiện Đại Nội Khoa Học).

+ Sinh địa 90g, Ngọc trúc 15g, Tế tân 3g, Độc hoạt, Khương hoạt, Chế xuyên ô, Thương truật, Đương qui, Bạch hoa xà đều 9g. Sắc uống. Dùng cho chứng thống phong sau khi sinh rất có hiệu quả.

+ Hoàng kỳ 12g, Đương qui, Cát căn đều 9g, Ma hoàng 3g, Bạch thược, chích thảo, Quế chi đều 6g, Sinh khương 1 lát, Táo 1 quả. Sác uống trị vai lưng đau.

+ Sung úy tử, Hà thủ ô đều 15g, đều 24g. Sắc nước lọc bỏ bã, dùng nước luộc trứng gà ăn. Dùng trị cánh tay đau có hiệu quả.

+ Bích hổ (Thằn lằn), ấu trùng Bọ dừa (bao giấy nướng, tán bột) mỗi thứ 3 con, Địa long tán bột 5 con, Mộc hương 15g, Nhũ hương 7,5g, Xạ hương 3g, Long não 15g. Tất cả tán bột chế với rượu, hồ thành hoàn bằng hạt đậuã đen to. Mỗi ngày uống lúc đói với rượu 30 viên (hoàn). (Thuốc trị chứng lịch tiết thống phong đau dữ dội điều trị nhiều thuốc không khỏi) (Hiện Đại Nội Khoa Học).

+ Xa tiền tử 15g, Tần giao, Uy linh tiên, Xuyên ngưu tất, Nhẫn đông đằng, Địa long đều 12g, Sơn từ cô, Hoàng bá đều 10g, Cam thảo 6g. Sắc nước uống. Đau nhiều thêm Xuyên ô 9g, Huyền hồ 12g, nhiệt thịnh thêm Dã cúc hoa 15g, Tử hoa địa đinh 30g, hoạt huyết thêm Đơn sâm 15g, lợi tiểu thêm Hoạt thạch 15g (Hiện Đại Nội Khoa Học).

Châm cứu Trị Chứng Gout

+ Huyệt chính: Thận du, Khí hải du, Bàng quang du, Quan nguyên, Tam âm giao. Phối với huyệt vùng đau, lân cận (A thị huyệt…).

Bệnh Án Thống Phong

Một chủ tịch công ty 57 tuổi, đến bệnh viện ngày 12 tháng 10 năm 1966, ngón cái bên chân trái sưng to gấp 2 lần bình thường, rất đau và mầu tím sẫm. Tháng 8 hai năm về trước xuất hiện tình trạng này, năm sau bệnh nhân không có khả năng đi lại được, đã sử dụng Colchicin nhưng không hiệu quả. Ngày 9 tháng 9 bệnh nhân đã đến khoa phẫu thuật chỉnh hình của phòng khám của trường đại học Y khoa Tokyo, ở đó bệnh nhân được điều trị trong 1 tháng nhưng không kết quả gì ngoại trừ hàm lượng acid uric trong máu giảm từ 9 xuống còn 6,5mg. Năm ngày sau bệnh nhân đến bệnh viện của chúng tôi, vì đau tái phát ở chân bên trái, vai trở nên cứng, đau dầu, nặng đầu, ù tai bên phải, đau thắt lưng, khát nước, thích nước, sợ lạnh, thèm gia vị và muối nhưng không thích thực phẩm ngọt, táo bón, tiểu tiện 8 đến 10 lần trong ngày và 1 lần ban đêm, nuôi dưỡng và sắc mặt tốt, mạch Huyền, bụng khỏe, ngoài ra rêu lưỡi trắng. Phúc chẩn ngực đau. Bệnh nhân được dùng bài Đại Sài Hồ Thang thêm Đại hoàng (vì có táo bón) và Thạch cao (vì có khát). Ngày 27 tháng 10 năm 1966, đau ngực đã dịu đi, phân mềm, đại tiện ngày 1 lần, tiểu tiện 4 hoặc 5 lần một ngày và 1 lần ban đêm, vì giảm lượng nước đưa vào. Ngày 2 tháng 11 chứng đau vai đã dịu đi nhưng chân vẫn còn đau. Tôi chuyển sang dùng bài Đương Quy Niêm Thống Thang. Ngày 12 tháng 11 bệnh nhân vẫn còn đau, tiếp tục dùng bài thuốc trên cùng với Bát Vị Hoàn trong 10 ngày nữa, nhưng không kết quả. Do vậy dùng bài Đại Sài Hồ Thang thêm Ma hoàng 15 ngày vì nó có tác dụng giảm đau. Ngày 12 tháng 12 chân bệnh nhân vẫn còn đau, khám lại toàn diện thấy đau ngực, phản ứng mạnh và đau khi ấn vào vùng bụng dưới. Do vậy tôi cho là huyết ứ và bệnh nhân được dùng bài Đại Sài Hồ Thang cùng với Đào Hạch Thừa Khí Thang thêm Hồng hoa, Ý dĩ. Hồng hoa làm tan huyết ứ và cải thiện tuần hoàn trong khi Ý dĩ làm giảm đau, dần dần hơn 1 năm, các chứng đau đã biến mất. Bệnh nhân dùng Đào Hạch Thừa Khí Thang đơn thuần trong 2 tháng nữa, lúc bệnh nhân trở lại bệnh viện ngày 20 tháng 3, acid uric đo được 3mg, tôi cho bệnh nhân dùng bài thuốc trên trong 2 tháng nữa, tất cả các triệu chứng đã biến mất.

2- Một chủ tịch công ty khác 45 tuổi bị thống phong ở gót chân, acid uric đo được 30mg, cân nặng 83kg, đến bệnh viện ngày 12 tháng 7 năm 1967, tôi đã cho dùng bài Đại Sài Hồ Thang thêm Hồng hoa và Ý dĩ trong 20 ngày. Bệnh nhân trở lại bệnh viện ngày 7 tháng 8, tình trạng đã được cải thiện; lượng acid uric đo được 5mg. Bệnh nhân tiếp tục dùng đơn thuốc này thêm 20 ngày nữa, và rồi 60 ngày nữa. Cuối cùng bệnh. nhân cho biết không còn đau và không tái phát.

Tập hợp đầy đủ nhất các tài liệu Y Học Cổ Truyền do

LƯƠNG Y – BÁC SĨ HOÀNG DUY TÂN

Bệnh Án Rong Kinh Y Học Cổ Truyền

Hầu hết với phép riêng biệt con gái cũng đã từng rong kinh (rong kinh), một vài từ hiện tượng chảy máu rất đa dạng, thời gian quá dài hoặc cả hai của chu kỳ kinh nguyệt chủ yếu cô đó cùng với một chu kỳ này vậy 28 ngày với thời kì chảy máu kéo dài 4 hoặc 5 ngày cũng như lượng máu mất trong khoảng 60-250 ml. chu kỳ kinh nguyệt có thể với, bất thường, đa dạng hơn hoặc không chảy máu, đau hoặc không đau, dài hay ngắn, tất cả đều có thể được thường nhật. tất cả người đều sợ rong kinh bất kể phải một ít số lượng đủ tiêu chuẩn tiến tiến được gọi thế rong kinh và buộc phải được trị bệnh . Các biểu hiện của rong kinh bện một. Kinh nguyệt ra đa dạng mà một ít hoặc ngâm hơn băng vệ sinh hoặc băng vệ sinh mỗi giờ, kéo dài đa dạng giờ. 2. Nó cần được dùng lúc số nhỏ băng 2 3. Buộc phải nên thay gạc băng vào đêm 4. Kinh nguyệt kéo dài hơn 7 ngày 5. Kinh nguyệt gồm những cục máu đông lớn 6. Kinh nguyệt nhiều mà không vận động thường ngày 7. Đau bụng liên tục 8. Bất thường chu kỳ kinh nguyệt 9. Hoặc mệt mỏi, khó thở cũng như dốc, những biểu hiện của kém máu Căn do của bệnh rong kinh: Trong một số tình trạng, con người ta không nhận ra nguyên nhân của mắc bệnh này nguyên nhân phổ biến bao gồm: Chứng rối loạn nội tiết: cần mang một ít sự cân bằng giữa hai khiêu khích tố estrogen cũng như progesterone liên lạc rụng trứng nữ giới, màng dày trong tử cung và chu kỳ kinh nguyệt được mịn màng. trường hợp vì một ít vì lý do nào khác, sự cân bằng này bị phá tan vỡ, tử cung màng dày lên rất độ cũng như tróc ra khi tạo mất kinh nguyệt quá đa dạng cân bằng hiện tượng này xảy ra chỗ số cô gái vị thành niên nhất sau ấy, lần trước tiên . kinh nguyệt, và đàn bà xung quanh mãn kinh số nhỏ số bị bệnh cũng dẫn tới xáo trộn này cân bằng, như suy tuyến giáp. sử dụng bừa bãi các hormone cũng có thể làm trường hợp này Tử cung sợi khối u: tuổi thường gặp trong thời kỳ thai cũng như dẫn tới rong kinh. Hai vì lý do trên dẫn đến 80% . của mọi các hiện tượng rong kinh Căn nguyên khác bao gồm: 1. Polyp u vậy khối u nhỏ mang chân, lớn mạnh trong tử cung 2. U nước (cyst) buồng trứng 3. Số buồng trứng ko chế tạo trứng đáng lo cũng như rụng trứng. 4. Đặt cuộn thai 5. Biến trong mang thai kỳ 6. Ung thư 7. Những dòng thuốc như thuốc chống đông máu, thuốc NSAIDs nhóm thuốc giảm đau … 8. Một những bệnh khác Nguyên do cũng như dấu hiệu nhận diện Bên dưới hai điều kiện này được coi thế nguyên cớ của 80% của rong kinh: Rối loạn nội tiết: Ở các đối tượng thường ngày, mang một vài sự thăng bằng giữa hai kích thích tố nga estrogen cũng như progesterone, gây rụng trứng, màng dày trong nội mạc tử cung cũng như thường ngày kinh nguyệt diễn ra. trường hợp vì số nhỏ lý do nào khác, sự cân bằng này bị xáo trộn, công đoạn chuyển đổi tử cung màng dày và khi kinh nguyệt tróc ra vô cùng phổ biến make up. điều này mất cân bằng điều kiện diễn ra cơ bản ở nữ giới, tuổi dậy thì, kinh nguyệt và nữ lần trước nhất . bên cạnh mãn kinh một vài số mắc bệnh cũng gây xáo trộn này cân bằng như thất bại … việc lạm dụng hormone tuyến giáp cũng sẽ gây ra trường hợp này. Sợi khối u tử cung: thường xảy ra trong thai kỳ và gây ra trong tình trạng tuổi rong kinh trường hợp số sợi khối u tử cung ở vị trí dưới niêm mạc. Ngoài ra, rong kinh mang một những căn nguyên khác: bị polyps (có thể từ nội mạc tử cung hay cổ tử cung từ kinh doanh), Humps nước (cyst) buồng trứng, lo lắng năng khiếu buồng trứng không dẫn tới trứng và rụng trứng, công cụ tử cung, hậu quả lúc có thai, ung thư, thuốc đình chỉ thai ko đúng mẹo .. . Dấu hiệu hay thấy ở những người bị bệnh có chứng rong kinh vậy kinh nguyệt kéo dài hơn 10 ngày, máu có khả năng không đa dạng dẫn tới người bệnh. chẳng thể hoạt động, đau vùng bụng dưới, luôn luôn cảm thấy mỏi mệt, khó thở và hay khó thở, mang biểu hiện ít máu trường hợp rong kinh đi kèm có sức nghiêm trọng kinh tế trong dài hạn.

Bệnh Basedow Theo Y Học Cổ Truyền

Bệnh basedow hay còn gọi là cường giáp, là bệnh lý do hormon tuyến giáp tăng cao làm cho cơ thể bị xáo trộn nội tiết. Biểu hiện của bệnh là hồi hộp, khó ngủ, run tay, dễ bị kích thích, hay cáu gắt, nhịp tim nhanh dẫn đến rối loạn nhịp tim, mệt nhiều, có khi ngứa ngoài da, người lúc nào cũng sợ nóng bức, ra mồ hôi nhiều,sụt cân, tiêu chảy… rất ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống.

Bệnh để lâu sẽ gây ra chứng lồi mắt, nặng hơn có khi không khép kín được mí mắt, Rối loạn giấc ngủ, rối loạn kinh nguyệt trên phục nữ hoặc các triệu chứng sẽ xuất hiện đồng thời với bệnh.

Tại Việt Nam tỷ lệ basedow khá cao từ 10% đến 39% trong số những người có bướu giáp đến khám tại bệnh viện, trong đó chủ yếu ở độ tuổi sinh đẻ từ 20 đến 40 chiếm tỷ lệ cao nhất.

Bệnh basedow rất dễ tái phát nên phải đi thăm khám thường xuyên

Bình thường hormone tuyến giáp là T3 (Tri-Iodothyronin) và T4 (Tretra-Iodothyronin) là hai hormone làm nhiệm vụ điều hòa chuyển hóa và tăng trưởng của cơ thể, chúng được kích thích sản xuất bởi TSH (Thyroid Stimulating Hormon) của tuyến yên. Khi bị bệnh basedow, cơ thể sản xuất ra 1 loại protein có tên là Thyrotropin receptor anti-body (TRAb) chống lại chính cơ thể (tự kháng thể).

Protein này gắn kết lên receptor của TSH trên tuyến giáp gây tăng tiết T3, T4 quá mức đây là chứng cường giáp.

Các phương pháp điều trị Basedow có điều trị nội khoa: thuốc kháng giáp trạng tổng hợp. Điều trị bằng ngoại khoa. Dùng Iod phóng xạ để điều trị. Kết hợp điều trị Y Học cổ truyền nhằm hỗ trợ cải thiện các triệu chứng, hạn chế tác dụng phụ và các biến chứng của các phương pháp điều trị bằng Y học hiện đại. Đặc biệt một số biến chứng của Basedow như lồi mắt, mất ngủ, rối loạn kinh nguyệt mặc dù bệnh nhân đã được điều trị bình giáp vẫn còn và ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống cử bệnh nhân. Điều trị bằng Y học cổ truyền giúp cải thiện rất nhiều các triệu chứng biến chứng của bệnh nhân.

Cường giáp xếp vào chứng ANH LỰU , NHỤC ANH, ANH bệnh, lấy biện chứng luận trị làm cơ sở và chia thành các giai đoạn:

Mới phát: chủ yếu là Can đởm kết, chữa trị nên lý khí hoá đởm, nhuyễn kiên, tán kết

Thời kỳ sau: phần âm suy, hao tổn, chữa trị nên nhu Can, tư Thận.

Chứng nhẹ: biểu hiện chủ yếu là can Khí uất kết, đàm kết sinh hoả gây nhiễu tâm phép trị chủ yếu là sơ can, thanh tâm, hoá đàm, tán kết.

Chứng nặng: Biểu hiện chủ yếu là khí uất, đàm kết, phép trị choủ yếu là dưỡng tâm, tả hoả, hoá đàm, tán kết.

Chứng nguy: biểu hiện chủ yếu là táo hoả cực thịnh làm suy kiệt khí âm, cần truyền dịch hồi sức cấp cứu.

Can khí uất trệ: ngực sườn đau tức, bụng đầy ăn ít, rìa lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch Huyền

Phép trị: sơ Can thanh nhiệt, lý khí, giải uất

Can hoả thịnh: bứt rứt, nóng nảy, hay cáu gắt, sắc mặt đỏ ửng, sợ nóng, miệng đắng, mồ hôi ra nhiều, hoa mắt chóng mặt, chân tay run, lưỡi đỏ rêu mỏng vàng, mạch huyền sác.

Trường hợp can hoả phạm vị, bệnh nhân mau đói, ăn nhiều. Phép trị: thanh can, tả hoả.

Tâm âm hư: bứt rứt khó ngủ, hồi hộp ra mồ hôi, mệt mỏi, ngắn hơi ( hụt hơi ), chất lưỡi đỏ bóng, ít rêu hoặc rêu mỏng, mạch Tế Sác.

Phép trị: dưỡng tâm, an thần, tư âm, sinh tân.

Đàm thấp Ngưng kết: tuyến giáp to, ngực đây tức, không muốn ăn, nôn, buồn nôn, tiểu lỏng. lưỡi bệu, rêu lưỡi dà,, nhợt, mạch Nhu Hoạt

Pháp điều trị: hoá đàm. Lợi thấp, nhuyễn kiên, tán kêt.

Tuỳ theo các thể và pháp điều trị có phương điều trị thích hợp dùng thuốc và không dùng thuốc., gia giảm theo từng chứng và bệnh nhân khác nhau.

Lục Quân Tử Thang Hợp Hải Tảo Ngọc Hồ thang gia giảm.: Hải tảo 30g , Hải đới 30g , Côn bố 30g, Trần bì 8g, Bán hạ 8g, Xuyên khung 8g, Đương quy 12g, Đảng sâm 12g, Bạch truật 12g, Bạch linh: 12g, Triết bối mẫu 12g, Cam thảo: 4g.

Tứ Hải Thư Uất Hoàn thêm Hương phụ, Uất kim.: Hải cáp phấn 8g, Hải đới 30g, Hải tảo 30g, Hải phiêu tiêu 20-30g, Côn bố 20-30g, Trần bì 8g, Mộc hương 12g, Hương phụ 12g, Uất kim 12g.

Côn bố, Hải tảo, Đậu nành 150-200g. Nấu chin hoặc thêm đường ăn thường xuyên.

Theo biện chứng luận trị chọn bài châm theo thể, có thể gia các huyệt tuỳ theo triệu chứng kèm theo.

Mắt lồi: thiên trụ, phong trì

Mất ngủ: đởm du, tâm du

Sốt về chiều : Đại chuỳ, lao cung

Mồ hội trộm : âm khích, hậu khê

Cơ thể gầy ốm : túc tam lý, tam âm giao.

Hồi hộp : Nội quan, thần môn

Tiểu lỏng : thiên xu, công tôn, tỳ du

Nhĩ châm : Nội tiết, Dưới vỏ não, Tuyến giáp.

Phương pháp châm : dùng hào châm châm cách nhật, 30 lần châm là một liệu trình. Gài nhĩ hoàn thì 3 ngày liên tục dặn bệnh nhân tự ấn huyệt ngày 3 lần, sau khi lấy kim, thay kim gài huyệt khác, 10 lần gài kim là 1 liệu trình.

Chứng Tâm Thận Bất Giao Trong Y Học Cổ Truyền

Tâm với Thận trong tình huống bình thường, chủ yếu là có mối quan hệ trên và dưới cùng giao nhau, thủy với hoả cũng giúp đỡ nhau. Nếu do phú bẩm bất túc, hoặc hư lao ốm lâu, hoặc phòng thất quá đáng v.v… khiến cho Thận thủy suy hư ở dưới không thể giúp cho Tâm hoả ở trên, Tâm hoả găng ở trên không thể giao với Thận ở dưới; Hoặc do mệt nhọc tinh thần quá độ, ngũ chí quá cực đến nỗi Tâm âm bị hao tổn ngấm ngầm, Tâm dương quá thịnh, Tâm hoả không thể giao với Thận ở dưới. Tâm hoả không giáng xuống, Thận thủy không thăng lên, tạo thành tình thể thủy hoả của Tâm Thận không giúp đỡ cho nhau sẽ hình thành bệnh biến, lâm sàng gọi là chứng Tâm Thận bất giao.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là Tâm phiền, mất ngủ, hay mê, di tinh, lưng đùi ê mỏi, triều nhiệt mồ hôi trộm, hoa mắt ù tai, hoặc hồi hộp, hoặc khô họng, hoặc đêm tiểu tiện nhiều lần, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít hoặc không có rêu, mạch Tế Sác.

Chứng này thường gặp trong các bệnh Kinh quý chính xung, Bất mị, Di tinh và Kiện vong.

Trong lâm sàng, cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Tâm hoả cang thịnh, chứng Tâm âm hư, chứng Tâm Tỳ đều hư, chứng Tâm Đởm khí hư và chứng Can Thận hư…

Chứng Tâm Thận bất giao trong những tật bệnh khác nhau, biểu hiện chứng trạng cũng có những đặc điểm không giống nhau.

Trong bệnh Kính quý chính xung, khi hồi hộp không yên, gặp sự sợ hãi thì phát bệnh hoặc có xu thế nặng hơn, trằn trọc không ngủ được, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác là chứng trạng chủ yếu; Nếu có kiêm cả chứng trạng ngũ tâm phiền nhiệt, lưng đùi ê mỏi, mắt hoa tai ù, đó là do Thận tinh thiếu thốn, thủy không giúp được cho hoả, Tâm hoả động ở trong gây nên; Điều trị theo phép dưỡng âm huyết, thanh Tâm an thần, chọn dùng bài Thiên vương bổ Tâm đan (Thế y đắc hiệu phương) hợp với Chu sa an thần hoàn(Nội ngoại thương biện – Đông Viên thập thư). Nếu ngũ Tâm phiền nhiệt, lưng đùi ê mỏi xuất hiện đột ngột, cũng có thể cho uống Lục vị địa hoàng hoàn (Tiểu nhi dược chứng trực quyết)hợp với Chu sa an thần hoàn.

Trong bệnh Di tinh thì có đặc điểm là tiết tinh trong giấc mộng, và đến hôm sau thì váng đầu hoa mắt, tinh thần không mạnh, mệt mỏi yếu sức, hoặc hồi hộp, hoặc tiểu tiện sẻn vàng và có cảm giác nóng, chất lưỡi đỏ, mạch Tế Sác; Đây phần nhiều do Tâm có vọng tưởng, không đạt ý muốn, tâm thần không yên, quân hoả găng một phía, Tâm âm ngấm ngầm hao tổn, tướng hoả vọng động, quấy rối tinh thần gây nên; Do Tâm hoả vượng mà Thận thủy khuy, với hoả không giúp đỡ nhau, Tâm Thận bất giao; Điều trị theo phép tư âm tả hoả (Tư Thận âm, tả quân, tướng hoả), chọn dùng bài Trí Bá địa hoàng hoàn (Y phương khảo) hoặc Tam tài phong tuỷ đan (Vệ sinh báo giám) gia giảm.

Nhưng loại bệnh này, không chỉ dựa vào thuốc men mà còn phải chú ý điều dưỡng tinh thần thanh tâm quả dục. Trương Cảnh Nhạc nói: “Bắt đầu bị di tinh, không ngoài bệnh do Tâm… và khi có bệnh thì tìm nó mà chữa, lại càng phải coi chuyên tâm là trước tiên, rồi sau mợi tùy chứng mà điều lý thì không trường hợp nào là không khỏi. Nếu như không biết đạo lý chứa từ gốc bệnh, chỉ toàn dựa vào thuốc men để mong cho dục vọng thành công, cũng là điều khó hy vọng”.

Trong bênh Bất mị – mất ngủ – có đặc điểm là hư phiền không ngủ, hay mê, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô tân dịch ít, lại kiêm cả chứng trạng váng đầu ù tai, hồi hộp, lưỡi đỏ, mạch Tế Sác; Đây là do mệt nhọc nội thương, Thận thủy bất túc, Tâm hoả mạnh một phía gây nên; Điều trị theo phép tráng thủy chế hoả, tư âm thanh nhiệt, chọn dùng bài Hoàng liên a giao thang(Thương hàn luận) hợp với Chu sa an thần hoàn gia giảm. Nếu đột xuất có chứng trạng Tâm hoả cang thịnh, có thể dùng bài Giao thái hoàn (Hàn thi Y thông). Nếu âm hư mà hoả không mạnh lắm, có thể uống Thiên vương bổ tâm đan.

Điều trị bệnh mất ngủ, ngoài việc dùng thuốc cần chú ý điều dưỡng tinh thần, tránh căng thẳng, nên thoải mái, giảm ham muốn, ngăn phiền não. Tóm lại, chứng Tâm Thận bất gi những tật bệnh khác nhau, từ cơ chế bệnh, nguyên nhân bệnh, cho đến chứng trạng, đều có chỗ khác nhau. Nhưng đã là Tâm Thận bất giao thì dù sao đi nữa cũng phải có biểu hiện đầy đủ những biểu hiện khác thường do hai tạng Thận và Tâm không giúp đỡ lẫn nhau, đó là chỗ cộng đồng.

Trong bệnh Kiện vong – Hay quên, có đặc điểm là mất ngủ hay quên, hồi hộp phiền nhiệt, chất lưỡi đỏ, mạch Tế Sác, có kiêm cả chứng lưng đùi yếu sức, di mộng, ù tai; Đây là do Thận tinh suy hao, Tâm Thận mất sự nuôi dưỡng gây nên; Điều trị nên tư bổ Thận tinh, dưỡng Tâm an thần, cho uống Lục vị, địa hoàng hoàn (Tiểu nhi dược chứng trực quyết) giả Toan táo nhân, Ngũ vi tử, Viễn trí, Xương bồ v.v…

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Tâm hoả cang thịnh với chứng Tâm Thận bất giao, tuy cả hai chứng trạng đều có những biểu hiện phảng phất giống nhau như tâm phiên, hồi hộp, hay mê; Nhưng chứng hậu Tâm hoả cang thịnh phần nhiều do tình chí uất kết hoá hoả hoặc là do lục dâm nội uất hoá hoả, hoặc do ăn nhiều thức ăn cay nóng, hoặc vì uống thuốc ôn táo quá mức gây nên. Tâm hoả quá thịnh quấy nhiễu tâm thần, bốc lên khoang miệng, phía dưới thì dồn xuống Tiểu trường, xuất hiện các chứng trạng chủ yếu là tà thực hoả thịnh như tâm phiền mà nóng, đắng miệng khát nước, lưỡi loét nát và đau hoặc phát sinh lở miệng, tiểu tiện sẻn đỏ hoặc nóng rát niệu đạo rít đau, đầu lưỡi đỏ hồng, mạch Sác. Còn chứng Tâm Thận bất giao là do mệt nhọc quá độ, ngũ chí quá cực, “âm khuy ở dưới, hoả vượng ở trên” đó là “hư hoả”, có các chứng trạng ngũ tâm phiền nhiệt, mồ hôi ít tân dịch, rêu lưỡi ít hoặc không có, mạch Tế mà Sác hoặc mộng di, hoặc lưng gối ê mỏi. Hiện tượng “Hỏa” của hai chứng, một là thực, một là hư, đó là bản chất khác nhau của nó.

Chứng Tâm âm hư với chứng Tâm Thận bất giao đều có các hiện tượng âm hư như miệng khô họng ráo, ngũ tâm phiền nhiệt, triều nhiệt mồ hôi trộm, lưỡi đỏ ít tân dịch, rêu lưỡi ít hoặc khô, mạch Tế Sác và đặc trưng tâm thần không yên như hồi hộp mất ngủ hay mê, nhưng về nguyên nhân bệnh, vị trí phát bệnh và chứng trạng cũng có chỗ khác nhau. Chứng Tâm hư do thể chất vốn hư, sau khi mắc bệnh bị hư yếu, hoặc mất huyết, hoặc tinh thần bị kích thích mà hao thương tâm huyết tâm âm gây nên bệnh. Vị trí bệnh ở Tâm, mất ngủ không nghiêm trọng lắm, đặc điểm chủ yếu là hay mê dê tỉnh, trong tâm phiền nhiệt tất cả là do âm không liễm dương gây nên.

Chứng Tâm Thận bất giao là do không biết thế nào là đủ, hoặc là quá mệt nhọc gây nên, mất ngủ nghiêm trọng, trằn trọc vật vã, thậm chí suốt đêm không ngủ, có kiêm cả hiện tượng Thận âm hư tổn như lưng gối mềm yếu vô lực, di tinh, váng đầu ù tai. Vì vậy, kết hợp với nguyên nhân bệnh, xem xét chứng trạng kỹ càng, phân biệt hai chứng này không khó.

Chứng Tâm Đởm khí hư với chứng Tâm Thận bất giao: Chứng Tâm Đởm khí hư là do thể trạng vốn hư yếu, Tâm Đởm hư khiếp hoặc bị kinh hãi đột ngột, tình tự căng thẳng, tổn hại đến Tâm Đởm. Chân khí của Can Đởm bị hư yếu, mộc không sinh hoả dẫn đến Tâm khí cũng hư. Tâm chủ thần minh mà Đởm chủ quyết đoán, nếu Tâm Đởm khí hư thì gặp sự việc dễ hãi sợ, ác mộng kinh khủng, thậm chí không dám ngủ một mình; Hoặc ngủ dễ thức giấc, có tình trạng như có người sắp đến bắt, lưỡi nhạt, mạch Huyền Tế; như sách Thẩm Thị Tồn sinh thư viết: “Tâm Đởm đều khiếp, động đến việc dễ hãi sợ, ngủ mơ mộng phân vân, hư phiền không ngủ được” Chứng Tâm Đởm khí hư tuy cũng có chứng trạng hồi hộp, hư phiền không ngủ” như chứng Tâm Thận bất giao, nhưng phải có đặc điểm sợ sệt không yên, động đến việc dễ kinh hãi hoặc trong tâm hồi hộp không yên, nơm nớp như có người sắp đến bắt. Ngoài ra, chứng Tâm Đởm khí hư lại còn kiêm cả đàm nhiệt, thường xuất hiện chứng trạng ngực đầy buồn nôn, nhiều đờm, rêu lưỡi nhớt v.v… đó là những điều khác nhau với chứng Tâm Thận bất giao.

Chứng Tâm Tỳ đều hư với chứng Tâm Thận bất giao: Tâm chứa thần, Tỳ chủ về lo nghĩ. Chứng Tâm Tỳ đều hư liên lụy đến hai tạng Tâm và Tỳ. Chứng Tâm Tỳ đều hư phần nhiều do tư lự quá độ mệt nhọc tâm thần gây nên. Tỳ hư không hoá sinh được chất tinh vi, huyết hư khó hồi phục; Tâm huyết hư thiếu, hoả không sinh thổ, dẫn đến Tỳ khí hư suy, không còn nguồn sinh hoa, trái lại khiến cho Tâm khí huyết bất túc, từ đó mà hình thành Tâm Tỳ đều hư. Trọng điểm biện chứng là ở chỗ đồng thời xuất hiện cả chứng trạng của khí huyết của Tâm bất túc và chứng trạng Tỳ hư vận chuyển không mạnh. Tuy nhiên, chứng Tâm Tỳ đều hư với chứng Tâm Thận bất giao, trên lâm sàng đều có chứng trạng cộng đồng như hồi hộp, mất ngủ, hay mê; Nhưng chứng Tâm Tỳ đều hư xuất hiện chứng trạng Tỳ không kiện vận mạnh như ăn uống kém xút, bụng trướng đầy, đại tiện lỏng nhão, mệt mỏi yếu sức… những chứng trạng này không thấy có ở chứng Tâm Thận bất giao, còn chứng Tâm Thận bất giao xuất hiện những chứng trạng của Thận âm bất túc và Tâm hoả quá thịnh như tâm phiền, váng đầu ù tai, lưng gối yếu mỏi, di tinh v.v… lại không đầy đủ trong chứng Tâm Tỳ đều hư. Ngoài ra, các chứng trạng của Tâm Tỳ đều hư như lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Tế Nhược, cũng khác với chứng Tâm Thận bất giao như lưỡi đỏ ít rêu, mạnh Tế Sác. Vì vậy chẩn đoán phân biệt khá dễ dàng.

Chứng Can Thận âm hư với chứng Tâm Thận bất giao: Can Thận đều ở vị trí Hạ tiêu, Can là Ất Mộc, Thận là Quý Thủy, Ât Quý đồng nguyên. Thận âm là gốc rễ của âm tinh toàn thân, ” Thận chủ thủy, tinh của năm tạng chứa ở đó”. Thận âm nhu dưỡng Can Âm, nếu là người vốn Thận âm bất túc mệt nhọc hao tổn quá độ, tổn hại tới chân âm, thủy không hàm mộc, âm không liễm dương, thì Can dương găng lên, chứng trạng chủ yếu của Chứng Can Thận âm hư là đau lưng, lưng gối mềm yếu, ngũ tâm phiền nhiệt, nóng từng cơn, mồ hồi trộm, váng đầu hoa mắt, tai ù, dễ cáu giận, ngực sườn khó chịu, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Huyền Sác; Yếu điểm biện chứng ở chỗ ngoài các chứng trạng của Can Thận bất túc còn có chứng trạng của Can dương găng lên như váng đầu hoa mắt tai ù, dễ cáu giận và ngực sườn khó chịu. Chứng Tâm Thận bất giao biểu hiện Thận âm hư với chứng Can Thận âm hư tuy có nhiều chỗ giống nhau, nhưng chứng trạng Tâm hoả quá găng như tâm phiền, hồi hộp, mất ngủ, hay mê phần nhiều là đặc điểm của bản thân nó, đồng thời chứng Tâm Thận bất giao không có chứng trạng rõ rệt của Can Dương găng lên, đó là chỗ khác nhau của hai chứng.

Trích dẫn y văn

Năm loại dịch bị thiếu ở dưới, hai loại hoả bốc lên trên; Thủy không giúp cho hoả, âm không phối dương, Vốn năm trước, uống quá nhiều loại thuốc khắc phạt. Thận âm bị tổn thương đến nỗi có chứng hồi hộp sợ sệt. Tự uống loại thuốc tư bổ Tâm, vốn là hợp lý. Nhưng chữa ở trên ắt phải tìm từ dưới, tư bổ ngọn ắt phải tưới cho gốc. Tâm đến nỗi bị bệnh là ngọn. Thận lại bị bệnh là gốc. Không phải chữa Tâm, nên chuyên vào bổ Thận:

Thục địa, Sơn dược, Du nhục, Quy thân, Ngũ vị, Lộc giác giao hoàn Tâm là quê hương quân chủ, Thận là cái tạng chứa nước. Tính của hoả bốc lên, thể của thủy nhuận xuốngThủy muốn đưa lên, hoả muốn giáng xuống, Thủy không có gì để thăng thì hoả làm sao giáng xuống được ?

Thủy Hoả không giúp nhau, Tâm Thận bất giao, vì thế mà Tâm phiền ý loạn, chẳng biết theo ngả nào; tông khí nổi lên, vùng Hư lý máy động, Mạch đến mềm, nhanh không có thần, có nỗi lo sợ hãi hay quên. Theo phép nên tráng thủy tiềm dương là chính.

Dương sâm Phục linh Quy thân Du nhục. Ngũ vị tử Thỏ ty tử Kỷ tử Bá tử nhân. Sơn dược, các vị tán bột, lấy Sinh địa, Mạch đông, Bạch truật nấu cao, thêm Quy lộc giao hòa tan, trộn bột thuốc làm viên (Vương Cừu Phong y án – Thanh đại danh y án tinh hoa). Người ta sinh ra, Tâm là Hoả ở phía trên, Thận là Thủy ở phía dưới Thuỷ có thể thăng, Hoả có thể giáng. Một thăng một giáng không bao giờ hết, cho nên sinh ý là ở đấy (Cách tri dư luận).

Tâm Thận giao với nhau toàn dựa vào sự thăng giáng, mà Tâm khí giáng là do Thận khí giáng, Thận khí thăng lại là do Tâm khí giáng Thăng giáng là thuỷ hoả, sở dĩ nó thăng giáng được là vì trong thuỷ hoả có chân âm và chân dương. Chân âm chân dương là chân khí trong Tâm Thận. Cho nên hậu thiên của Thận là tiên thiên của Tâm. Hậu thiên của Tâm là tiên thiên của Thận vậy. Muốn bổ Tâm thì nên Thực Thận, khiến cho Thận thăng được; Muốn bổ Thận thì nên Ninh Tâm, khiến cho Tâm giáng được… đó là phép làm cho Tâm Thận giao với nhau (Thận trai di thư).