Triệu Chứng Bệnh Als / Top 10 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Zqnx.edu.vn

Als (Bệnh): Triệu Chứng Và Các Phương Pháp Chẩn Đoán

Hệ thống thần kinh của con người là rất dễ bị tổn thương. Đó là lý do tại sao có rất nhiều bệnh khác nhau có thể ảnh hưởng một phần đặc biệt của cơ thể. Trong bài viết này, tôi muốn nói đến là gì ALS (bệnh). Triệu chứng, nguyên nhân của bệnh, cũng như các phương pháp chẩn đoán và điều trị càng tốt.

nó là gì? loại

Ngoài ra còn có ba loại bệnh như ALS:

cổ điển lẻ tẻ. Nó không phải là do di truyền. Rằng nó chiếm khoảng 95% của tất cả các trường hợp bệnh.

Di truyền (hoặc gia đình). Như đã trở nên rõ ràng, nó được thừa hưởng. Tuy nhiên, đối với loại bệnh được đặc trưng bởi sự biểu hiện sau này của các triệu chứng.

Guam kiểu hoặc hình dạng của Mariana. Tính năng độc đáo của nó được thể hiện trước hai ở trên. chậm phát triển của bệnh.

Các triệu chứng đầu tiên

Điều đáng nói rằng các triệu chứng đầu tiên của bệnh có thể được điều trị và trong bất kỳ căn bệnh khác. Đây chính là vấn đề của sự lừa dối: để chẩn đoán ngay lập tức nó gần như là bất khả thi. Vì vậy, các triệu chứng đầu tiên của bệnh ALS như sau:

Yếu cơ. Về cơ bản nói đến mắt cá chân và bàn chân.

Teo của bàn tay, yếu kém của cơ bắp. Nó cũng có thể xảy ra dysmotility.

Bệnh nhân trong giai đoạn đầu của bệnh có thể hơi cụp dừng.

Đặc trưng bởi chu kỳ co thắt cơ bắp. Có thể co giật vai, tay, lưỡi.

Chân tay yếu đi. Một bệnh nhân khó khăn có thể di chuyển xa.

Nó cũng là đặc trưng loạn vận ngôn xuất hiện, ví dụ: rối loạn ngôn ngữ.

đầu tiên nuốt khó khăn cũng xảy ra.

Nếu bệnh nhân có bệnh ALS (một căn bệnh), các triệu chứng của sự phát triển của bệnh sẽ phát triển, phát triển. Tiếp theo, bệnh nhân có thể thỉnh thoảng cảm thấy niềm vui vô cớ hoặc buồn bã. Teo có thể xảy ra ngôn ngữ và mất cân bằng. Tất cả điều này là bởi vì người đó đang đau khổ hoạt động tinh thần cao hơn. Trong một số trường hợp, trước khi có các triệu chứng chủ yếu có thể gây rối loạn chức năng nhận thức. tức là mất trí nhớ xuất hiện (điều này xảy ra thường xuyên, khoảng 1-2% các trường hợp).

tiến triển của bệnh

Những gì người khác là rất quan trọng để biết những người quan tâm đến ALS (bệnh)? Các triệu chứng xảy ra ở bệnh nhân như bệnh có thể nói về những gì chính xác loại mình của bệnh:

chi ALS. Các trận lượt đi diễn ra thất bại. Hơn nữa tiến chức năng chi vi phạm.

ALS hành tủy. Trong trường hợp này, các triệu chứng chủ yếu là chức năng ngôn luận vi phạm, cũng như các vấn đề với nuốt. Điều đáng nói rằng loại bệnh ít phổ biến hơn so với lần đầu tiên.

gia tăng các triệu chứng

Những gì cần biết bệnh nhân có bệnh như ALS? Các triệu chứng sẽ dần dần tăng lên, chức năng chi sẽ giảm.

Dần dần có bệnh lý Babinski, khi bị ảnh hưởng là các nơron vận động trên.

trương lực cơ, phản xạ sẽ được tăng cường để được nâng cấp.

Dần dần sẽ nơron vận động ngạc nhiên và thấp hơn. Trong trường hợp này, bệnh nhân sẽ cảm nhận được sự co giật không tự nguyện của các chi.

Trong này khá thường xuyên ở những bệnh nhân con người phát triển trầm cảm, có u sầu. Tất cả vì người đó mất khả năng để tồn tại mà không cần bất kỳ sự giúp đỡ, nó mất khả năng di chuyển.

Ngoài ra, nó không thể tự phục vụ. Bệnh nhân thường chèn một ống thông qua đó một người đàn ông và nhận được tất cả các cần thiết cho sự tồn tại của thực phẩm.

Điều đáng nói rằng ALS khá có thể xảy ra sớm hơn. Các triệu chứng ở độ tuổi trẻ sẽ không khác biệt so với các triệu chứng của bệnh nhân, có dấu hiệu đầu tiên xuất hiện muộn hơn nhiều. Tất cả đều phụ thuộc vào cơ thể, cũng như trên các loại bệnh. Với sự phát triển của bệnh dần dần vô hiệu hóa người mất năng lực cho cuộc sống độc lập. Theo thời gian, hoàn toàn bác bỏ những chi.

Giai đoạn cuối cùng

Trong giai đoạn cuối của căn bệnh này bệnh nhân thường là chức năng hô hấp bị suy yếu, khả năng thất bại của các cơ hô hấp. Trong trường hợp này, bệnh nhân cần thông gió. Qua thời gian, có thể phát triển các chức năng thoát nước của cơ thể, mà thường dẫn đến thực tế là gia nhập một nhiễm trùng thứ cấp, trong đó tiếp tục giết chết bệnh nhân.

chẩn đoán

Sau khi xem xét một căn bệnh như bệnh ALS, các triệu chứng, chẩn đoán – đó là những gì tôi muốn nói với cũng có. Điều đáng nói rằng căn bệnh này được tìm thấy thường xuyên nhất một quá trình loại trừ các vấn đề khác với cơ thể. Khi một bệnh nhân sau phương tiện chẩn đoán có thể được chỉ định:

phân biệt

Điều đáng nói rằng căn bệnh này có các triệu chứng xảy ra và các bệnh khác. Do đó, nó là cần thiết để phân biệt ALS với các vấn đề sau:

điều trị

Bit coi là một căn bệnh như bệnh ALS, triệu chứng, điều trị – đây là những gì cũng cần phải đặc biệt chú ý. Như đã đề cập ở trên, nó không thể được chữa khỏi hoàn toàn. Tuy nhiên, có loại thuốc giúp làm chậm quá trình của bệnh. Trong trường hợp này, bệnh nhân thường dùng thuốc như “thuốc riluzole”, “Rilutek” (mỗi ngày hai lần một ngày). Nó có thể ngăn ngừa sự kết tủa của hơi glutamin, một chất có ảnh hưởng đến tế bào thần kinh vận động. Tuy nhiên, nó cũng rất hữu ích là phương pháp khác nhau điều trị, với mục tiêu chính – cuộc chiến chống lại các triệu chứng chính:

Aids:

y học cổ truyền, châm cứu cho bệnh này là vô ích. Nó cũng cần phải nói rằng không chỉ bệnh nhân mà còn gia đình ông thường cần giúp đỡ với một bác sĩ chuyên khoa.

Bệnh Xơ Cứng Cột Teo Cơ (Als): Triệu Chứng, Và Cách Điều Trị

Share bài viết nếu bạn thấy bổ ích:

được viết tắt của Amyotrophic Lateral Sclerosis , là bệnh xơ cứng teo cơ một bên, còn gọi là bệnh nơron vận động (MND) hay bệnh Lou Gehrig.

Xơ cột bên teo cơ là một căn bệnh không quá phổ biến. Bệnh thường ảnh hưởng đến nam giới nhiều hơn nữ giới. Bệnh có thể xuất hiện ở bất kỳ lứa tuổi nào, tuy nhiên độ tuổi mắc bệnh thường từ 40-60 tuổi.

Hiện nay 90 tới 95% các trường hợp là không rõ nguyên nhân. Các trường hợp còn lại là do di truyền từ cha mẹ. Khoảng một nửa các ca di truyền này là do một trong hai gen riêng biệt.

2- Dấu hiệu triệu chứng bệnh xơ cứng teo cơ

Các triệu chứng của bệnh ALS có xu hướng bị bỏ qua nhưng khi thời gian trôi qua, chúng trở nên nghiêm trọng và dần biến thành teo. Nhiều bệnh nhân ALS đã quan sát thấy dấu hiệu đầu tiên được nhìn thấy trên cánh tay hoặc bàn tay.

– Khó khăn trong việc đi lại hoặc thực hiện các hoạt động bình thường hàng ngày

– Yếu ở chân, bàn chân hoặc mắt cá chân

– Tay yếu và vụng về: họ không thể làm công việc thường xuyên như viết, mở khóa bằng chìa khóa, hoặc cài nút áo

– Nói chậm, khó nhai hoặc nuốt

– Co giật cơ ở cánh tay, chân hoặc lưỡi, chuột rút cơ

– Khóc, cười hoặc ngáp không bình thường

– Thay đổi nhận thức và hành vi.

Bạn cần đến bệnh viện hoặc tìm gặp bác sĩ ngay khi có những triệu chứng sau:

– Đi lại khó khăn và mất kiểm soát các hoạt động sinh hoạt bình thường khác

– Chân, bàn chân và đầu gối yếu đi hoặc tê liệt

– Tê cơ, tay, vai và lưỡi co giật

– Khó ngẩng đầu lên hoặc khó đi đứng hay ngồi đúng cách

3- Biến chứng của bệnh xơ cứng cột bên teo cơ (ALS)

Bệnh tiến triển nặng dần, khoảng 50% tử vong sau 3 năm, sau 6 năm tử vong khoảng 90%.

Biến chứng Hô hấp: Theo thời gian, hội chứng xơ cứng teo cơ một bên làm tê liệt các cơ dùng để thở. Nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất của hội chứng ALS là suy hô hấp

Biến chứng Ăn uống: Bệnh nhân xơ cứng teo cơ không nhai được, nuốt nghẹn. Lâu dần dẫn đến cơ thể không hấp thụ đủ dinh dưỡng. Hệ quả, người bệnh gầy nhom, teo đét, suy dinh dưỡng rồi suy kiệt nặng.

Ảnh hưởng đến giao tiếp: Hầu hết những người mắc hội chứng ALS đều gặp tình trạng khó nói chuyện. Lâu dần người bệnh không thể giao tiếp một cách bình thường mà phải dựa vào công nghệ hỗ trợ để giao tiếp.

4- Phương pháp chuẩn đoán xơ cột bên teo cơ

Về điều trị, hiện nay chưa có thuốc đặc trị cho bệnh này. Bệnh do thoái hóa thần kinh được Bộ Y tế quy định thuộc nhóm bệnh cần chữa trị dài ngày. Các thuốc dùng thường là để điều trị các triệu chứng.

Các liệu pháp hỗ trợ điều trị bệnh ALS là:

Hỗ trợ điều trị bằng thuốc: Hiện nay Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt hai loại thuốc để điều trị hội chứng ALS:

– Edaravone (biệt dược Radicava): Dùng đường tiêm truyền tĩnh mạch, đã được chứng minh là có thể làm giảm diễn tiến suy giảm chức năng.

– Riluzole (biệt dược Rilutek): Dùng đường uống, đã được chứng minh là có khả năng làm tăng tuổi thọ từ 3 đến 6 tháng.

Liên hệ mua thuốc Rilutek 50 mg giá tốt

Rilutek 50 mg có thành phần chính là Riluzole có khả năng làm chậm sự tiến triển của các triệu chứng ở bệnh nhân xơ cứng teo cơ một bên giúp kéo dài tuổi thọ hoặc thời gian để thở máy cho bệnh nhân ALS.

Liều dùng của Riluzole 50 mg: Liều khuyến cáo hàng ngày ở người lớn hoặc người lớn tuổi là 100 mg (50 mg mỗi 12 giờ).

Thuốc Rilutek 50mg có giá bao nhiêu? Mỗi nhà thuốc có sự chênh lệch về mức giá. Để được tư vấn và mua thuốc teo cơ Rilutek 50 mg giá tốt nhất vui lòng liên hệ chúng tôi : 0982744684.

Bệnh Xơ Cứng Cột Bên Teo Cơ (Hội Chứng Als)

1. Bệnh xơ cứng cột bên teo cơ:

Hội chứng ALS còn được gọi là bệnh “Lou Gehrig”- Tên của một cầu thủ bóng chày sau khi người này được chẩn đoán mắc bệnh nêu trên. Cho tới nay, nguyên nhân gây ra Bệnh xơ cứng cột bên teo cơ vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Một số trường hợp được cho là do di truyền.

Bệnh thường bắt đầu với cơn co giật cơ, yếu ở một bên chi hoặc nói chậm. Bệnh xơ cứng cột bên teo cơ ảnh hưởng chủ yếu đến các nhóm cơ bên trái của cơ thể. Cuối cùng, bệnh ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình kiểm soát các cơ cần thiết để di chuyển, nói, ăn và thở. Hiện nay chưa có cách điều trị cho căn bệnh này.

2. Triệu chứng xơ cứng cột bên teo cơ:

Các dấu hiệu và triệu chứng của ALS thường rất khác nhau tùy theo từng người và tùy thuộc vào loại tế bào thần kinh nào bị ảnh hưởng.

Các triệu chứng có thể bao gồm:

Khó khăn trong việc đi lại hoặc thực hiện các hoạt động bình thường hàng ngày;

Thường xuyên bị vấp, ngã;

Yếu ở chân, bàn chân hoặc mắt cá chân;

Teo nhỏ dần các cơ nhiều vùng sau vai, chân tay 2 bên

Tay yếu và vụng về;

Nói chậm, khó nuốt;

Chuột rút cơ bắp, co giật ở cánh tay, vai và lưỡi;

Khóc, cười hoặc ngáp không bình thường;

Thay đổi nhận thức và hành vi.

Hội chứng ALS thường bắt đầu ở bàn tay, bàn chân, sau đó lan sang nhiều bộ phận khác trên cơ thể. Khi bệnh bắt đầu tiến triển và các tế bào thần kinh bị phá hủy, cơ bắp của bệnh nhân sẽ yếu đi. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc nhai, nuốt, nói và hít thở.

Nhìn chung, người bệnh hầu như không có cảm giác đau trong tất cả các giai đoạn của ALS. Hội chứng này cũng không ảnh hưởng đến hoạt động kiểm soát bàng quang hoặc các giác quan của cơ thể.

Người mắc hội chứng ALS thường gặp khó khăn trong việc đi lại hoặc thực hiện các hoạt động hàng ngày

3. Nguyên nhân của hội chứng ALS

Hội chứng ALS ảnh hưởng đến các tế bào thần kinh có chức năng kiểm soát những chuyển động cơ bắp không ý thức, như đi bộ và nói chuyện (thuộc tế bào thần kinh vận động). Bệnh khiến cho các tế bào thần kinh vận động dần dần chết đi. Hệ thống tế bào thần kinh vận động kéo dài từ não đến tủy sống, đến các cơ dọc khắp cơ thể. Khi tế bào thần kinh vận động bị tổn thương, chúng sẽ chấm dứt quá trình dẫn truyền thông tin đến cơ bắp, vì vậy cơ bắp không thể hoạt động.

5 – 10% các bệnh nhân mắc xơ cứng cột bên teo cơ là do di truyền. Đối với các trường hợp còn lại, nguyên nhân gây bệnh chưa được biết đến.

Khu trú của tổn thương ở bệnh xơ cột bên teo cơ là: thoái hoá các tế bào thần kinh vận động nằm ở sừng trước tủy sống, đặc biệt là ở phình tủy cổ và thắt lưng, các nhân dây thần kinh sọ não ở thân não: nhân dây XII, IX, X và nhân vận động của dây V, tổn thương các đường dẫn truyền ở cột bên của tuỷ sống, đặc biệt là bó tháp, có thể tổn thương ở các tế bào Betz nằm ở lớp thứ V và lớp thứ III của vỏ não. Đặc điểm của tổn thương là: phản ứng viêm và thoái hoá, các tế bào thần kinh bị thoái hoá hoặc huỷ hoại được thay bằng tổ chức xơ, các sợi thần kinh bị thoái hoá huỷ hoại bao myelin, các đường dẫn truyền thần kinh bị đứt đọan. Quanh các mạch máu có thâm nhiễm nhẹ các tế bào viêm. Tiến triển của tổn thương có xu hướng lan dần lên cao, bắt đầu thường từ phình tuỷ cổ lan dần lên hành não, cầu não và vỏ não.

4. Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh

Các yếu tố nguy cơ được thiết lập cho hội chứng ALS bao gồm:

Di truyền: Đối với phần lớn những người mắc hội chứng ALS, con của họ có 50% nguy cơ mắc bệnh;

Tuổi tác: Nguy cơ mắc bệnh này thường tăng theo tuổi, phổ biến nhất ở độ tuổi từ 40 đến trước 70 tuổi;

Giới tính: Trước 65 tuổi, số bệnh nhân nam mắc hội chứng ALS nhiều hơn so với phụ nữ một chút. Sự khác biệt này biến mất sau 70 tuổi.

Đột biến trong di truyền: Các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều điểm tương đồng trong các đột biến di truyền của những người mắc ALS do di truyền và những người mắc ALS khác. Những đột biến trong di truyền này có nguy cơ cao gây bệnh xơ cứng cột bên teo cơ

Các yếu tố nguy cơ từ môi trường cũng có thể gây ra hội chứng ALS:

Hút thuốc lá: Đây là yếu tố nguy cơ môi trường duy nhất. Nguy cơ mắc bệnh do yếu tố này dường như cao hơn ở phụ nữ, đặc biệt là sau thời kỳ mãn kinh;

Tiếp xúc với những độc tố từ môi trường: Một số bằng chứng cho thấy rằng việc tiếp xúc với chì hoặc các chất độc khác ở nơi làm việc hoặc ở nhà có thể dẫn tới hội chứng ALS;

Đối tượng quân nhân: Một số nghiên cứu cho rằng những người từng phục vụ trong quân đội có nguy cơ mắc ALS cao hơn. Nguyên nhân có thể là do việc tiếp xúc với một số kim loại hoặc hóa chất trong chiến tranh, đối tượng bị chấn thương, nhiễm virus và gắng sức quá lớn.

5. Biến chứng do xơ cứng cột bên teo cơ:

Theo thời gian, hội chứng xơ cứng cột bên teo cơ làm tê liệt các cơ dùng để thở. Bệnh nhân cần sử dụng một thiết bị chuyên dụng để hỗ trợ thở vào ban đêm, tương tự như khi điều trị cho những người mắc chứng ngưng thở khi ngủ

Nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất của hội chứng ALS là suy hô hấp. Trung bình, khả năng tử vong xảy ra trong vòng 3 đến 5 năm kể từ khi các triệu chứng đầu tiên khởi phát. Tuy nhiên, một số bệnh nhân vẫn có thể sống trên 10 năm.

Hầu hết những người mắc hội chứng ALS đều gặp tình trạng khó nói chuyện. Ban đầu, triệu chứng này chỉ xảy ra thỉnh thoảng, nhưng dần sẽ nghiêm trọng hơn qua thời gian. Cuối cùng, người bệnh không thể giao tiếp một cách bình thường mà phải dựa vào công nghệ hỗ trợ để giao tiếp.

Bệnh nhân xơ cứng cột bên teo cơ thường bị suy dinh dưỡng và mất nước do tổn thương các cơ bắp kiểm soát hoạt động nuốt. Ngoài ra, người bệnh cũng có nguy cơ cao đưa thức ăn, chất lỏng hoặc nước bọt vào phổi, dẫn đến viêm phổi. Để khắc phục tình trạng này, bác sĩ có thể dùng một ống dẫn, giúp cung cấp thức ăn, nước và các chất dinh dưỡng cần thiết cho bệnh nhân.

Một số người mắc hội chứng ALS có vấn đề với trí nhớ và khả năng ra quyết định. Một số bệnh nhân thậm chí được chẩn đoán mắc một dạng sa sút trí tuệ gọi là Sa sút trí tuệ trán – thái dương (frontotemporal dementia).

6. Xét Nghiệm- Cận Lâm Sàng:

ALS là một bệnh khó chẩn đoán, cần kết hợp các dấu hiệu lâm sàng và các kết quả xét nghiệm. ALS nên được đặt ra khi đã loại trừ những bệnh có biểu hiện tương tự (ví dụ u tủy sống, xơ cứng bì rải rác hoặc chèn ép thần kinh).

Trong hầu hết trường hợp xét nghiệm dịch não thấy bình thường, số ít trường hợp có biểu hiện tăng nhẹ protein.

Điện cơ có biểu hiện điển hình của rối loạn dẫn truyền thần kinh cơ, tuy nhiên cũng không phải là đặc hiệu của bệnh XCBTC mà nó cũng tương tự biểu hiện cơ của các bệnh lý tổn thương tuỷ sống khác.

Điện cơ khi không co cơ xuất hiện điện thế rung sợi cơ, khi co cơ tối đa điện cơ có biểu hiện giảm số lượng đơn vị vận động, tăng biên độ và kéo dài bước sóng điện thế đơn vị vận động.

Các xét nghiệm máu không thấy thay đổi gì rõ, có tác giả nêu có biểu hiện rối loạn chuyển hoá pyruvat. Có thể thấy tăng bài tiết creatinin và giảm creatinin trong nước tiểu.

Hình ảnh MRI có thể thấy tăng tín hiệu ở tuỷ sống và thân não (hình ảnh T2), teo thùy trán não.

Sinh thiết cơ có hình ảnh teo các sợi cơ giống như teo cơ do các bệnh thần kinh ngoại vi khác, với biểu hiện: teo, thoái hoá các sợi cơ trong một bó cơ các sợi cơ đều bị thoái hoá, không xen kẽ sợi cơ bình thường, nhưng có bó cơ không bị thoái hoá xen kẽ lẫn bó cơ bị thoái hoá. Không có rối loạn đáng kể cấu trúc của sợi cơ, không xen lẫn các tổ chức xơ và mỡ vào các cơ.

dựa trên sự kết hợp của các dữ liệu sau:

– Yếu cơ ở tay hoặc chân.

– Tăng phản xạ gân xương.

– Dấu hiệu Babinski dương tính.

– Xét nghiệm dịch não tủy bình thường.

– Xét nghiệm điện cơ.

– Xét nghiệm tốc độ dẫn truyền thần kinh giảm.

– Chụp cộng hưởng từ (MRI) não và tủy sống.

Trước hết cần phân biệt với teo cơ tiên phát như: loạn dưỡng cơ tiến triển, ở bệnh cơ tiên phát không có hội chứng hành não hoặc liệt giả hành não. Nếu có nghi ngờ thì điện cơ và sinh thiết cơ giúp ta loại trừ hoàn toàn bệnh lý của cơ.

Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý khác của tuỷ sống và não như: xơ não tuỷ rải rác, hạ liệt cứng gia đình, viêm sừng trước tuỷ sống mạn tính tiến triển, thoái hoá cột sống có chèn ép các rễ thần kinh cổ, hốc tuỷ, thiểu năng tuần hoàn não hệ động mạch sống nền, u tuỷ cổ và giang mai thần kinh.

Các bệnh nhân trên đều có bảng lâm sàng riêng, có thể nêu những đặc điểm chính của bệnh khác với XCBTC như sau:

– Xơ não tủy rải rác, do tổn thương nhiều ổ, rải rác ở não và tuỷ nên lâm sàng đa dạng, thường thấy ở các triệu chứng như: giảm thị lực, liệt hai chi dưới, hội chứng tiểu não, hội chứng tiền đình, ít có biểu hiện teo cơ và rung giật bó sợi cơ.

– Hạ liệt cứng gia đình: biểu hiện bằng liệt trung ương chi dưới tiến triển nặng dần, có rối loạn cơ vòng, không tiến triển lên chi trên và hành não.

– Viêm sừng trước tuỷ sống mạn tính tiến triển: biểu hiện bằng liệt ngoại vi ở hai chi trên hoặc tứ chi kèm theo teo cơ, không có rối loạn cảm giác nhưng không có hội chứng tháp.

– Tổn thương các rễ thần kinh cổ do thoái hoá cột sống cổ: hội chứng Aran- Duchenne thực sự kèm theo rối loạn cảm giác, không bao giờ tăng phản xạ gân xương và có phản xạ bệnh lý bó tháp.

– Hốc tuỷ: có rối loạn cảm giác điển hình là phân ly cảm giác: mất cảm giác đau, nóng, lạnh, còn xúc giác và cảm giác sâu.

– U tuỷ cổ: có biểu hiện chèn ép tủy nên bao giờ cũng có rối loạn cảm giác như: đau rễ, giảm cảm giác theo kiểu khoanh đoạn và theo đường dẫn truyền thần kinh.

– Thiểu năng tuần hoàn hệ động mạch sống – nền: ở mức độ nặng.

8. Điều trị bệnh xơ cứng cột bên teo cơ:

Các phương pháp điều trị hiện nay không thể đảo ngược diễn tiến của bệnh xơ cứng cột bên teo cơ, nhưng có thể làm chậm sự tiến triển của triệu chứng, ngăn ngừa các biến chứng, giúp bệnh nhân cảm thấy thoải mái và độc lập hơn. Tóm lại, mục tiêu điều trị nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài thời gian sống. Các phương pháp điều trị bao gồm:

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt hai loại thuốc để điều trị hội chứng ALS:

Riluzole (biệt dược Rilutek): Dùng đường uống, đã được chứng minh là có khả năng làm tăng tuổi thọ từ 3 đến 6 tháng;

Edaravone (biệt dược Radicava): Dùng đường tiêm truyền tĩnh mạch, đã được chứng minh là có thể làm giảm diễn tiến suy giảm chức năng.

Ngoài ra, bác sĩ có thể kê đơn các thuốc khác để giải quyết những triệu chứng của bệnh.

8.2. Điều trị bằng liệu pháp

Hỗ trợ thở: Bệnh nhân sẽ dần cảm thấy khó thở hơn khi cơ bắp yếu đi. Các bác sĩ cần kiểm tra hơi thở thường xuyên và cung cấp các thiết bị để hỗ trợ hô hấp vào ban đêm;

Vật lý trị liệu: Nhằm cải thiện những vận động thường xuyên, như đi lại, di chuyển, giúp bệnh nhân không bị phụ thuộc vào người khác khi cần di chuyển. Các bài tập vật lý trị liệu còn giúp duy trì sức khỏe tim mạch, sức mạnh cơ bắp và sự dẻo dai của cơ thể;

Trị liệu chức năng: Giúp bệnh nhân khắc phục hậu quả do yếu cơ tay bằng các thiết bị đặc biệt. Các thiết bị này giúp thực hiện những hoạt động thiết yếu, chẳng hạn như mặc quần áo, chải chuốt, ăn uống và tắm rửa;

Trị liệu về ngôn ngữ. Giúp người bệnh học các kỹ thuật để giao tiếp hiệu quả hơn. Các chuyên gia trị liệu về ngôn ngữ có thể khuyến khích bệnh nhân sử dụng thêm các vật dụng hỗ trợ khác, chẳng hạn như bảng chữ cái, bút, giấy.

Hỗ trợ dinh dưỡng: Để đảm bảo bệnh nhân ăn các loại thực phẩm dễ nuốt, đồng thời đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng hàng ngày.

Hỗ trợ tâm lý và xã hội: Các chuyên gia tâm lý học sẽ hỗ trợ bệnh nhân khắc phục các vấn đề về tâm lý và kết nối với xã hội.

Mặc dù việc điều trị bệnh xơ cứng cột bên teo cơ hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, nhưng chất lượng cuộc sống và thời gian sống của bệnh nhân đã cải thiện đáng kể. Trong khi đó, các đánh giá lâm sàng về sử dụng thuốc và phương pháp điều trị mới đầy hứa hẹn đang được nghiên cứu và sẽ được ứng dụng trong tương lai gần.

Bệnh tiến triển nặng dần, khoảng 50% tử vong sau 3 năm, sau 6 năm tử vong khoảng 90%.

BS Đoàn Ngọc Sâm – Khoa PHCN

Điều Trị Bệnh Als Bằng Tế Bào Gốc

XƠ CỨNG TEO CƠ MỘT BÊN ALS LÀ GÌ?

NGUY CƠ MẮC XƠ CỨNG TEO CƠ MỘT BÊN

Được biết, mỗi ngày, trung bình có thêm 15 người được chẩn đoán mắc bệnh ALS – tương đương với hơn 5.600 người mỗi năm. Hầu hết bệnh nhân được phát hiện mắc ALS ở độ tuổi từ 40 đến 70, mặc dù bệnh có thể xảy ra ở độ tuổi nhỏ hơn. Ai cũng có nguy cơ mắc bệnh, không phân biệt chủng tộc, điều kiện kinh tế – xã hội.

NGUYÊN NHÂN BỆNH ALS

Nguyên nhân của ALS hiện chưa được tìm thấy, nhưng một nghiên cứu vào năm 1993 cho thấy rằng cơ thể của bệnh nhân ALS sản sinh ra Cu/Zn superoxide dismutase (SOD1). Nguyên nhân chính có thể được coi là do di truyền, trong nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã phát hiện ra rằng SOD1 đột biến có thể trở thành chất độc hại. Ngay cả các yếu tố môi trường như chế độ ăn uống, các tác nhân truyền nhiễm, và virus cũng có thể là nguyên nhân.

ALS không thể được phát hiện bằng một xét nghiệm đơn lẻ. Các bác sĩ phải xem xét lại toàn bộ lịch sử y tế, sau đó tiến hành kiểm tra thần kinh định kỳ để xem xét các triệu chứng có tệ hơn hay không. Chẩn đoán chính được thực hiện bằng cách quan sát các dấu hiệu và triệu chứng sau khi thực hiện một loạt các xét nghiệm. Các xét nghiệm này có thể là: tín hiệu điện cơ (EMG) – để xem khả năng phản ứng với dòng điện của các sợi cơ thông qua các báo cáo đặc biệt; nghiên cứu dẫn truyền thần kinh (NCS) – thử nghiệm được thực hiện trên các dây thần kinh; cộng hưởng từ (MRI), cùng với một loạt các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm như xét nghiệm nước tiểu và xét nghiệm máu.

CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH ALS

Lúc đầu, các triệu chứng của bệnh ALS có xu hướng bị bỏ qua nhưng khi thời gian trôi qua, chúng trở nên nghiêm trọng và dần biến thành teo. Các triệu chứng ban đầu có thể là co giật cơ ở cánh tay, chân hoặc lưỡi, chuột rút cơ, khó nhai hoặc nuốt, các cơ thường xuyên bị cứng. Nhiều bệnh nhân ALS đã quan sát thấy dấu hiệu đầu tiên được nhìn thấy trên cánh tay hoặc bàn tay; họ không thể làm công việc thường xuyên như viết, mở khóa bằng chìa khóa, hoặc cài nút áo, vì thế thường thì người ta không thể nói chính xác nơi nào hoặc khi nào họ có dấu hiệu đầu tiên hoặc triệu chứng bệnh lý.

Tế bào gốc là tập hợp các tế bào sinh học chưa biệt hoá có thể được biến đổi thành các tế bào chuyên biệt và thậm chí chúng có thể được phân chia để trở thành những tế bào gốc khác. Các tế bào gốc này có thể được thu thập từ phôi được hình thành trong giai đoạn blastocyst, hoặc từ các mô đã trưởng thành. Những tế bào trưởng thành này có thể được tìm thấy khắp cơ thể người, chúng có khả năng nhân lên và phát triển, nhưng chúng chỉ phát triển khi có tổn thương mô trong cơ thể, hoặc khi chúng được kích hoạt bởi bất kỳ một bệnh nào đó, ngoài ra, trong suốt dòng đời của mình, các tế bào gốc này phân tán khắp nơi trong cơ thể.

Những tế bào này chủ yếu được tìm thấy trong não, máu, mạch máu, da và tủy xương. Tế bào gốc phôi nang được tìm thấy khi con người đang phát triển bên trong bụng mẹ. Ngày nay người ta đã bắt đầu bảo quản dây rốn của những đứa trẻ khi chúng vừa được sinh ra. Lý do đằng sau việc lưu trữ này là dây rốn chứa đựng một số lượng lớn các tế bào gốc có thể giúp ích cho bất kỳ rủi ro nào trong tương lai. Tuy nhiên, dây rốn chỉ được chấp nhận lưu trữ khi các xét nghiệm như HIV I & II, CMV, HCV, IgG/IgM, kháng thể IgG/IgM giang mai và kháng nguyên bề mặt viêm gan B cho kết quả âm tính. Ngoài ra nó cũng không được nhiễm nấm và vi khuẩn. Khoa học hiện đại nhìn thấy rất nhiều tiềm năng trong tế bào gốc, không có giới hạn về số lượng bệnh có thể được điều trị bằng tế bào gốc, chẳng hạn như ung thư, tiểu đường, Parkinson, Alzheimer và nhiều hơn nữa…

LIỆU PHÁP TẾ BÀO GỐC ĐIỀU TRỊ BỆNH ALS SỬ DỤNG TẾ BÀO GỐC TRUNG MÔ (MSC)

MSC có tính chất linh hoạt và khả năng cung cấp các yếu tố tăng trưởng điều chỉnh hệ miễn dịch

Việc cấy ghép tế bào gốc trung mô (MSC) dẫn đến gia tăng sự tồn tại của tế bào thần kinh vì các tế bào này giúp tạo ra các protein hữu ích trong sự tăng trưởng và tồn tại của các tế bào thần kinh mới trưởng thành và đầy đủ tính năng. Hơn nữa, ý tưởng thay thế các tế bào thần kinh chết bằng các tế bào mới hiện nay trở nên thực tế hơn, khả thi và hấp dẫn hơn. Bệnh nhân đã được điều trị bằng tế bào gốc cho thấy sự cải thiện trong sự phối hợp vận động, sự cân bằng, khả năng nói, nuốt và cử động ở những khu vực khác.

Các liệu pháp hỗ trợ được bao gồm trong chương trình điều trị bệnh ALS của chúng tôi là:

Kích thích chế độ tế bào gốc sửa chữa: tiêm peptide trẻ hóa

Liệu pháp enzyme trong 30 ngày

Các gói dinh dưỡng tùy chỉnh dựa trên xét nghiệm máu của bệnh nhân

Liệu pháp laser mô

Liệu pháp oxy.

Liệu pháp tế bào gốc điều trị bệnh ALS: kết quả tiềm năng

Hàng trăm bệnh nhân ALS trên toàn thế giới tiếp tục thấy kết quả đáng kinh ngạc của liệu pháp tế bào gốc. Liệu pháp này đã được chứng minh hiệu quả trong việc làm chậm sự tiến triển của căn bệnh này, và mang lại cho bệnh nhân chất lượng cuộc sống tốt hơn.

ĐẶT LỊCH TƯ VẤN VỚI BÁC SĨ – LIỆU PHÁP TẾ BÀO GỐC ĐIỀU TRỊ BỆNH ALS

FUTURE CLINIC

chúng tôi : Tầng 3, Thiên Sơn Plaza, 800 Nguyễn Văn Linh, P. Tân Phú, Q.7

HÀ NỘI: 22 An Trạch, Cát Linh, Đống Đa

Hotline: 1900 63 67 16 – 0901 24 77 88

Chương Trình Nghiên Cứu / Als / Amyotrophic Lateral Sclerosis

Chương trình Nghiên cứu / ALS / Amyotrophic Lateral Sclerosis

Việc thay thế những tế bào thần kinh bị hư hại là một ý tưởng táo bạo nhưng hết sức triển vọng mặc dù người ta chưa xác định được rằng liệu các tế bào mới có kháng cự được nguồn tác hại ban đầu đã gây nên bệnh ALS hay không. Dù vẫn chưa rõ ràng nhưng trên thực tế những tế bào gốc đó có thể đảm nhận được nhiệm vụ xác định ra những nơron vận động và hình thành các điểm tiếp xúc phục hồi chức năng với cơ. Điều này có thể xảy ra vì các tế bào gốc đóng vai trò như là những phương tiện vận chuyển cho các yếu tố dinh dưỡng thần kinh, vốn là những protein có trong bộ não và cơ với nhiệm vụ hỗ trợ cho sự tăng trưởng và sinh tồn của các nơron. Mãi cho đến khi các cuộc thí nghiệm quy mô lớn về bốn yếu tố không thể cải thiện được những triệu chứng của bệnh ALS thì lĩnh vực này đã trở thành một nguồn hy vọng chính trong giới nghiên cứu. Cho đến thời điểm này, các nhà khoa học vẫn đang làm việc với các yếu tố và những phương thức mới để đưa ra được các liệu pháp điều trị.

Ví dụ, một cuộc nghiên cứu lâm sàng về Yếu tố Phát triển 1 kiểu Insulin (IGF-1, hay myotrophin) đã bắt đầu được thực hiện vào năm 2003 để xem liệu thuốc có làm chậm diễn tiến của hiện tượng yếu đi ở chứng bệnh ALS hay không. IGF-1 cần thiết cho sự phát triển bình thường của hệ thần kinh và dường như nó có chức năng bảo vệ các nơron thần kinh trong các mẫu động vật. Người ta cho rằng nó cản trở các đường chết tự nhiên của tế bào và thúc đẩy quá trình phục hồi phân bổ dây thần kinh của cơ và quá trình tăng trưởng và tái sinh của axon.

Máu dây rốn/các tế bào gốc: Nghiên cứu trên động vật đưa ra giả thuyết về vai trò lâm sàng của máu dây rốn/tế bào gốc trong tĩnh mạch và trên thực tế ở một số phòng khám người ta đã chuẩn bị sẵn những tế bào này cho những người mắc bệnh ALS. Hiện tại vẫn chưa có một cuộc thử nghiệm cuối cùng, đảm bảo sự an toàn lâu dài hay có những kết quả như mong muốn. Một số bệnh nhân đã cho Hiệp hội ALS biết rằng thể trạng và chức năng của họ đã được cải thiện sau khi họ được cấy các tế bào này. Cánh cửa đã hé mở cho nhiều cuộc nghiên cứu sâu hơn.

Các thuốc đã được FDA chấp thuận để điều trị những chứng bệnh khác hiện đang được thử nghiệm để điều trị các triệu chứng của bệnh ALS, bao gồm buspar (điều trị chứng lo âu) và Celebrex (điều trị bệnh viêm khớp). Cả hai loại thuốc đã cho thấy tác dụng tích cực đối với tuổi thọ của những con chuột bị mắc các chứng bệnh tương tự như ALS. Thuốc điều trị bệnh ung thư vú tamoxifen (Nolvadex) đã cho thấy tác dụng có lợi qua các cuộc thử nghiệm trên chuột; các cuộc nghiên cứu lâm sàng vẫn đang được thực hiện.

Một loại thuốc có tên là AVP-923 (dextromethorphan/loại thuốc làm chậm nhịp tim, dùng để kiểm soát nhịp tim tăng hay bất thường) đang được thử nghiệm để điều trị chứng tinh thần bất ổn (cười và khóc không chủ ý) ở những người mắc bệnh ALS. Các cuộc thử nghiệm lâm sàng cũng đang tiến hành đối với creatine, một chất hóa học được sinh ra tự nhiên tham gia vào quá trình trao đổi chất trong cơ có thể giúp những người mắc ALS.