Hậu Quả Của Bệnh Máu Trắng / Top 19 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Zqnx.edu.vn

Hậu Quả Của Căn Bệnh Máu Khó Đông

Năm nay bé Sơn 9 tuổi, 9 năm qua, tháng nào Sơn cũng phải nhập viện 2 đến 3 lần, mỗi lần kéo dài từ 3-5 ngày. Lần nhập viện này cũng giống như bao lần khác, đó là những vết thâm tím trên cơ thể, sưng đầu gối hoặc do không may bị chảy máu ngoài da, Sơn và người nhà không thể cầm máu cho em.

Nguyễn Trọng Hồng, phụ huynh của cháu Sơn cho biết: Gia đình phát hiện cháu mắc bệnh lúc được 7 tháng tuổi và được giới thiệu sang Viện Huyết học Truyền máu TW điều trị. Sang đây điều trị đúng thuốc, đúng chuyên môn hơn về chuyên khoa.

Còn trường hợp của bệnh nhân Dương Đức Bằng đang điều trị tại Viện Huyết học Truyền máu TW với các dấu hiệu xuất huyết, bầm tím trên cơ thể. Đồng thời đau ở các khớp đầu gối, đau cơ đùi, cơ lưng hoặc những cơ ít vận động. Đặc biệt dấu hiệu rõ nhất là chảy máu khó cầm.

Anh Dương Đức Bằng kể lại: Trước đây có đi chơi thì phi cái nứa vào chân nhìn vết thương thì cũng chỉ bé thôi, bình thường thôi nhưng mà đến tối nó chảy rất là nhiều đến nỗi mà quấn băng rồi là băng ép chặt nó thấm hết. Nhưng ngày đó không biết bị bệnh nên chỉ tiêm cầm máu ở nhà, phải đến một tuần.

Theo bác sĩ Nguyễn Thị Mai, Trưởng khoa điều trị Hemophilia, Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương thì đó là biểu hiện của bệnh rối loạn chảy máu do thiếu yếu tố cần thiết để làm đông máu. Trong y học, Gen sản xuất yếu tố đông máu chỉ nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X, có tính di truyền. Nam giới có bộ nhiễm sắc thể XY khi nhận X bệnh từ mẹ thì chắc chắn sẽ biểu hiện bệnh. Còn nữ giới có bộ nhiễm sắc thể XX, chỉ biểu hiện thành bệnh khi cả hai nhiễm sắc thể này đều trục trặc, nghĩa là cả bố và mẹ cùng mang gen bệnh. Nếu cô gái đó chỉ chứa 1 nhiễm sắc thể X bệnh thì sẽ không biểu hiện ra ngoài (tuy vẫn có thể truyền cho con). Vì thế, bệnh máu khó đông hầu như chỉ thấy ở nam giới. Do vậy công tác khám sức khỏe tiền hôn nhân có ý nghĩa quan trọng để tránh sinh con mang bệnh Hemophilia.

Còn theo Giáo sư Nguyễn Anh Trí, Viện trưởng Viện Huyết học Truyền máu TW thì căn bệnh này thực sự để lại nhiều hậu quả nặng nề nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời. Khi bị chảy máu, đặc biệt trong khớp, trong cơ, hoặc trong các nội tạng thì bệnh nhân nhẹ nhất có thể tàn phế, nặng có thể tử vong ngay.

Theo thống kê của Viện Huyết học Truyền máu TW, hiện trên cả nước có khoảng 6.000 bệnh nhân Hemophilia nhưng chỉ có khoảng gần 40% bệnh nhân được phát hiện và chăm sóc thường xuyên. Trong khi đó, với những người bị bệnh ưa chảy máu có thể bị xuất huyết không kiểm soát do một chấn thương rất nhỏ; chảy máu vào các khớp và cơ bắp gây đau dữ dội và dẫn tới tàn tật; chảy máu vào não có thể gây tử vong.

Hậu Quả Nguy Hiểm Của Bệnh Ung Thư Máu

Ung thư máu hiện là một trong những căn bệnh ung thư nguy hiểm và phổ biến nhất trên toàn thế giới. Chỉ tính riêng trong năm 2023, hơn 171.000 ca bệnh đã được phát hiện và tiếp nhận điều trị. Tuy nhiên, vẫn chưa nhiều người hiểu rõ ung thư máu cụ thể là bệnh như thế nào và tác hại mà nó gây ra cho bệnh nhân là gì.

Ung thư máu là bệnh như thế nào?

Máu trong cơ thể người được tạo thành từ các tế bào hồng cầu (có chức năng vận chuyển oxy đi khắp cơ thể), bạch cầu (có chức năng tiêu diệt vi khuẩn, virus và các loại mầm bệnh), tiểu cầu (có chức năng cầm máu). Bệnh ung thư máu do đó có thể hiểu là tình trạng các tế bào máu bị ảnh hưởng do một số tác nhân xấu khiến cho chúng không thể thực hiện được các chức năng thông thường trên. Ngoài ra, sự ảnh hưởng này cũng có thể ngăn chặn việc sản xuất các tế bào máu khoẻ mạnh. Đặc biệt, các tác nhân xấu gây ra bệnh ung thư máu chính là bản thân các tế bào đồng thời đây cũng là căn bệnh ung thư duy nhất không có khối u (còn gọi là ung bướu).

Hiện nay, các ca bệnh ung thư máu đã biết trên thế giới được phân vào 3 dạng chính: Bệnh bạch cầu, bệnh ung thư hạch bạch huyết (lymphoma) và bệnh đa u tuỷ.

Bệnh bạch cầu (ung thư bạch cầu) được mọi người biết đến nhiều hơn qua tên gọi bệnh máu trắng. Căn bệnh này xảy ra khi có sự đột biến ở bạch cầu, tế bào trong máu có nhiệm vụ chống nhiễm trùng và bảo vệ cơ thể. Dựa vào tốc độ phát triển, có hai loại bệnh bạch cầu chính với nguyên nhân, biểu hiện, tình trạng bệnh khác nhau. Cụ thể:

– Bệnh bạch cầu cấp tính: Là căn bệnh có nguyên nhân do cơ thể sản xuất ra một số lượng lớn những tế bào bạch cầu chưa trưởng thành. Những tế bào này làm cho các tổ chức sản xuất tế bào máu bị tắc nghẽn từ đó dẫn tới các tế bào máu trưởng thành không được sản xuất gây thiếu máu nghiêm trọng. Bệnh bạch cầu cấp tính xảy ra trong thời gian ngắn, đột ngột và tiến triển rất nhanh chóng do đó cần phải được điều trị khẩn cấp.

– Bệnh bạch cầu mãn tính: Là căn bệnh có nguyên nhân do cơ thể sản xuất ra một số lượng lớn các tế bào bạch cầu trưởng thành. Vì các tế bào này có chức năng tiêu diệt vi khuẩn, virus và các loại mầm bệnh nên chúng khá “hung dữ”. Do đó, nếu số lượng các tế bào bạch cầu tăng lên quá nhanh sẽ gây ra hiện tượng “đói ăn” và kết quả là chúng bắt đầu tấn công tế bào hồng cầu làm nhiệm vụ vận chuyển oxy đi khắp cơ thể. Quá trình này sẽ khiến cơ thể bị thiếu máu dẫn tới tử vong.

Bệnh ung thư hạch bạch huyết (lymphoma)

Hệ bạch huyết là một hệ thống miễn dịch giúp bảo vệ cơ thể chống lại sự tấn công của các dị vật và mầm bệnh. Tổ chức này được tạo thành từ một mạng lưới mạch bạch huyết cùng với các hạch bạch huyết phân bố khắp cơ thể. Trong đó, hạch bạch huyết được tạo ra từ các tế bào lympho có chức năng làm bộ lọc hoặc bẫy để giữ các dị vật. Thông thường, các tế bào lympho được sản xuất vừa đủ và phân huỷ khá nhanh để duy trì một số lượng nhất định, bảo đảm hoạt động bình thường của cơ thể. Tuy nhiên, khi bị ung thư, các tế bào này sẽ được sản xuất với số lượng lớn và thời gian chúng tồn tại cũng lâu hơn. Điều này đồng nghĩa với việc hệ miễn dịch bị quá tải và phá hoại nghiêm trọng. Ngoài ra, do hệ bạch huyết phân bố ở khắp nơi trong cơ thể nên ung thư hạch bạch huyết cũng có thể gây ảnh hưởng đến các bộ phận như tuỷ xương, lá lách, gan,…

Đa u tuỷ là căn bệnh xuất hiện ở huyết tương, một thành phần của máu. Huyết tương có nhiều công dụng, một trong số đó là sản xuất ra tương bào, tế bào tạo ra kháng thể tấn công và tiêu diệt mầm bệnh trong cơ thể. Tuy nhiên, khi các tương bào này bị dị biến. Chúng không trưởng thành và chết đi như các tế bào bình thường mà nhân lên với số lượng rất nhanh, gây tắc nghẽn cho tuỷ xương dẫn tới việc không thể sản xuất ra các tế bào máu bình thường và gây ra các chứng bệnh do thiếu máu. Bên cạnh đó, các tương bào bị ung thư sẽ sản xuất ra kháng thể bất thường gây tổn thương cho thận cùng một số bộ phận khác. Đây chính là nguyên nhân và bản chất của bệnh đa u tuỷ.

Tác hại và hậu quả đáng sợ mà ung thư máu gây ra cho bệnh nhân

Với chức năng đi khắp cơ thể cung cấp oxy và chất dinh dưỡng, lấy đi các chất thải đồng thời loại trừ các vi thể và mầm mống gây bệnh, máu là một trong những tổ chức quan trọng nhất và có ảnh hưởng đến hầu hết các bộ phận trong cơ thể người. Do đó, bệnh ung thư máu cũng là một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất xảy ra cho con người. Những hậu quả và tác hại mà bệnh ung thư máu gây ra cho bệnh nhân gồm:

– Tác hại đầu tiên ung thư máu gây ra là các chức năng của máu trong cơ thể bị suy giảm. Cụ thể hơn, do số lượng các tế bào bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu bị giảm sút mà cơ thể sẽ gặp phải các tình trạng: suy giảm hệ miễn dịch (do thiếu hụt bạch cầu), sút cân nhanh chóng, cơ thể thường xuyên mệt mỏi, sức khoẻ yếu đi (do thiết hụt hồng cầu, các tế bào tích tụ gây khó khăn trong việc vận chuyển chất dinh dưỡng), vết thương khó cầm máu (do thiết hụt tiểu cầu),

– Tiếp theo, các tế bào ung thư sẽ theo dòng máu đi khắp cơ thể, tích tụ và gây ảnh hưởng đến các bộ phận khác. Theo đó, người bệnh sẽ bị đau lưng, đau bụng, tức ngực, khó thở,..

– Cuối cùng, nếu không được chữa trị kịp thời, bệnh nhân bị ung thư máu sẽ tử vong do các nguyên nhân: thiếu máu, tắc mạch máu, suy kiệt, suy hô hấp.

Triệu Chứng Của Bệnh Máu Trắng

Cho đến nay vẫn chưa tìm ra nguyên nhân chính xác dẫn đến ung thư máu. Tuy nhiên, qua nhiều nghiên cứu người ta có thể thấy, ung thư máu thường gặp ở những người tiếp xúc với bức xạ năng lượng cao, tiếp xúc trong lĩnh vực điện từ làm tăng nguy cơ bệnh bạch cầu (ung thư máu). Ngoài ra, ung thư máu còn có yếu tố di truyền.

Những cơn đau đầu kéo dài và khủng khiếp là dấu hiệu đặc biệt nghiêm trọng của bệnh bạch cầu. Do lưu lượng máu đến não và tủy sống bị hạn chế khi mạch máu teo lại tạo ra những cơn đau nửa đầu.

Khối u bất thường hoặc sưng bạch huyết ở các tuyết và hạch bạch huyết. Người bệnh xuất hiện khối u màu xanh hoặc tím nhưng không đau ở một số khu vực như cổ, bụng, hoặc vùng háng.

Mệt mỏi là dấu hiệu của nhiều loại bệnh trong đó có bệnh máu trắng. Khi số lượng hồng cầu giảm, bệnh nhân sẽ bị thiếu máu dẫn đến mệt mỏi, ốm yếu, hay buồn ngủ, thường xuyên nghỉ hoặc ngồi, khó thực hiện các sinh hoạt bình thường.

Bệnh nhân bị máu trắng dễ bị chảy máu và bầm tím. Một số người xuất hiện các cụm đốm đỏ hoặc tím nhỏ dễ nhầm với phát ban nhưng thực chất đó là các mạch máu bị vỡ do số lượng tiểu cầu thấp. Đặc biệt cần chú ý khi các vết loét không lành, chảy máu cam thường xuyên không rõ nguyên nhân, chảy máu lợi ngay cả khi không bị bệnh nướu răng hoặc phụ nữ kéo dài kỳ kinh bất thường.

Do bị giảm khả năng miễn dịch của cơ thể nên bệnh nhân thường xuyên bị sốt và nhiễm trùng. Các tế bào ung thư máu phát triển nhanh, lấn át các bạch cầu bình thường nên khi thiếu tế bào bạch cầu khỏe mạnh, cơ thể mất đi những “chiến binh” chống lại tác nhân bên ngoài.

Do lượng hồng cầu ít nên không đủ ôxy cung cấp cho các cơ quan của cơ thể khiến bệnh nhân cảm thấy khó thở. Một số người phải thở gấp trong khi nhiều người lúc nào cũng có cảm giác thiếu ôxy. Bản thân bệnh nhân cũng có thể nhận thấy hơi thở nhanh hơn bởi cơ quan hô hấp đang làm việc tích cực hơn giúp cơ thể có đủ không khí để thở.

Bệnh máu trắng cấp tính tiến triển có thể gây sưng gan hoặc lá lách dẫn đến đau bụng hoặc cảm giác đầy bụng dưới xương sườn. Một số bệnh nhân bị nôn hoặc buồn nôn do sưng gan hoặc lá lách.

Khi có những dấu hiệu kể trên cần đến ngay các cơ sở y tế xét nghiệm máu để phát hiện và điều trị kịp thời bệnh máu trắng.

Cùng Chuyên Mục Bình Luận Facebook

Thiếu Máu Dẫn Đến Hậu Quả Gì?

Bị thiếu máu do đâu?

Có nhiều nguyên nhân gây ra thiếu máu, trong đó thiếu máu do thiếu chất sắt chiếm tỷ lệ 25 – 35%. Bệnh xảy ra do bệnh nhân bị mất máu lâu ngày, như trường hợp phụ nữ mất máu nhiều khi bị hành kinh, bệnh nhân bị ung thư đại tràng mất máu do chảy rỉ rả trong thời gian dài, bệnh nhân bị bệnh giun móc…. Do Bbệnh mạn tính cũng chiếm tỷ lệ 25 – 35% các trường hợp thiếu máu.

Một số bệnh mạn tính ở gan, thận, tuyến nội tiết… cũng gây thiếu máuchiếm tỷ lệ 25 – 35% các trường hợp thiếu máu. Bên cạnh đó, nguyên nhân . Do tan huyết và tủy xương không tạo đủ tế bào máu chiếm 15%, . Do bệnh myelodysplasia (10%), do; bệnh thalassemia (5 – 10%); các bệnh khác (5-10%) như bệnh thiếu vitamin B12, thiếu acid folic.

Hơn nữa, xu hướng ăn nhiều thực phẩm chế biến sẵn khiến cơ thể thiếu hụt một số chất dinh dưỡng quan trọng, dẫn đến thiếu máu.

Triệu chứng ở người bị thiếu máu

Ngoài những dấu hiệu như cơ thể yếu đi và thiếu năng lượng, các triệu chứng của thiếu sắt làm cho thiếu máu bao gồm nhịp tim nhanh và mạnh, huyết áp thấp, đau bụng kinh dữ dội, chảy máu nhiều và đau chủ yếu ở phía trán.

Một số người bị thiếu máu cũng có thể bị giảm sự thèm ăn và xáo trộn giấc ngủ, gây ra khó thở khi tham gia bất kỳ hoạt động thể chất nào. Lâu dần có thể bị đau bụng và suy giảm chức năng hệ miễn dịch.

Khi thiếu máu, lưỡi có thể bị đau, sáng bóng và có màu đỏ; Tóc trở nên giòn và dễ gãy hơn; Móng tay cũng trở nên giòn và mỏng, có thể có màu trắng xuất hiện bên trong. Đây cũng là những dấu hiệu lộ ra bên ngoài khi bạn bị thiếu hụt dinh dưỡng nghiêm trọng.

Biểu hiện ở những người thiếu máu khác nhau, có thể đến sớm hoặc muộn, nhanh hay chậm, có khi không có triệu chứng rõ rệt. Thường khi chỉ số hemoglobin (Hb) xuống dưới 7 gr/dl, người bệnh sẽ thấy mau mệt, nhức đầu, khó thở, choáng váng, đau ngực. Khi người bệnh trông xanh xao, nhìn không còn rõ, ngất xỉu, tim đập nhanh nên mau chóng thăm khámđưa đi khám và chữa trị ngay.

Hậu quả nghiêm trọng của thiếu máu

– Cơ thể mệt mỏi nặng: làm việc chóng mệt, hay ngủ gà ngủ gật. Hay bị ngất, hoa mắt, chóng mặt, ù tai khi đang ngồi mà đứng dậy. Khi thiếu máu đủ nghiêm trọng, có thể quá mệt mỏi và không thể hoàn thành công việc hàng ngày.

– Vấn đề về tim: thiếu máu có thể dẫn đến nhịp tim nhanh hoặc bất thường – một rối loạn nhịp. Tim phải bơm máu nhiều hơn để bù đắp cho sự thiếu oxy trong máu khi đang thiếu máu. Điều này thậm chí có thể dẫn đến suy tim sung huyết.

– Tổn thương thần kinh: vitamin B12 là điều cần thiết không chỉ cho sản xuất tế bào máu đỏ khỏe mạnh, mà còn cho các chức năng khỏe mạnh thần kinh. Thiếu vitamin B12 có thể gây ra một số thương tổn thần kinh

– Suy chức năng tâm thần: thiếu vitamin B12 cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng tâm thần.

– Tử vong: thiếu máu có thể nghiêm trọng và dẫn đến biến chứng nguy hiểm tính mạng. Mất rất nhiều máu nhanh chóng trong bệnh thiếu máu cấp tính trầm trọng có thể gây tử vong.

Đặc biệt, với phụ nữ có thai có thể gây sẩy thai liên tục, đẻ non hoặc trẻ sinh ra có cân nặng sơ sinh thấp. Thiếu máu do sắt có thể gây ra một số tai biến về sản khoa như chảy máu khi sinh, hậu sản….

– Chia sẻ phương pháp điều trị các bệnh thiếu máu thường gặp

Biến Chứng Mạch Máu Nhỏ Của Bệnh Tiểu Đường Và Hậu Quả Để Lại

Tổn thương mạch máu nhỏ có thể tác động đến nhiều bộ phận trên cơ thể người bệnh. Trong đó rõ ràng và nguy hiểm nhất là biến chứng trên mắt – bệnh võng mạc tiểu đường.

Bệnh lý này xuất hiện khi các mạch máu nhỏ ở mắt bị tổn thương do đường huyết tăng cao gây rò rỉ dịch và xuất huyết trên bề mặt võng mạc, làm giảm thị lực hoặc có khả năng gây mù vĩnh viễn.

Triệu chứng: Hầu hết các trường hợp xuất hiện bệnh võng mạc mắt đều không có triệu chứng lâm sàng hoặc bệnh nhân mất thị lực dần dần. Thường khi phát hiện bệnh đã tiến triển đến giai đoạn nặng.

Người mắc bệnh tiểu đường nên có biện pháp kiểm tra và theo dõi mắt thường xuyên để phát hiện kịp thời, góp phần ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh.

Xơ vữa động mạch – biến chứng mạch máu nhỏ của bệnh tiểu đường dẫn đến tử vong nhanh nhất

Bệnh tiểu đường làm tổn thương mạch máu, kéo theo canxi, cholesterol và chất thải chuyển hóa tích lũy lại tạo nên mảng xơ vữa. Nếu nhẹ, mảng xơ vữa gây hẹp mạch máu, cản trở lưu thông máu đến các cơ quan trong cơ thể.

Nhưng nếu nặng hơn, xơ vữa động mạch gây tắc hoàn toàn mạch máu, dẫn đến các bệnh về tai biến mạch máu não, viêm tắc động mạch chi dưới và các bệnh về tim mạch như: đau thắt ngực hay còn gọi là bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp, huyết khối, suy tim…

Bình thường, thận đóng vai trò quan trọng trong việc đào thải các chất độc ra ngoài cơ thể. Khi mắc bệnh tiểu đường, đường huyết tăng cao liên tục trong thời gian dài khiến thận làm việc quá sức, gây áp lực lên thận. Cộng với việc mạch máu nhỏ tại cầu thận bị tổn thương do nồng độ đường trong máu cao. Lâu dần, hệ thống lọc bị phá hủy, thận gắng sức quá mức dẫn tới suy giảm chức năng không hồi phục.

Thận bị hư đồng nghĩa với việc nồng độ các chất thải, các chất độc hại tồn dư trong cơ thể ngày càng nhiều. Khi bệnh thận tiểu đường chuyển biến đến giai đoạn nặng, người bệnh phải điều trị bằng phương pháp lọc thận nhân tạo hoặc thay thận. Đây là một trong những phương pháp điều trị rất tốn kém và ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cũng như tuổi thọ của người bệnh.

Ngoài những bệnh điển hình kể trên thì biến chứng mạch máu nhỏ của bệnh tiểu đườn g còn có khả năng gây ra nhiều tổn thương cho mạch máu trên não. Điều này tác động lớn đến sức khỏe của người bệnh.