Cách Phòng Bệnh Uốn Ván / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Bệnh Uốn Ván Và Cách Phòng Ngừa Uốn Ván

Hai con của tôi đã được tiêm chủng hồi vòn nhỏ (tiêm chủng 6 loại vaccin) trong đó dường như đã có chủng ngừa uốn ván (tê ta nốt) . như vậy việc chủng ngừa đó đến bây giờ có còn tác dụng không? nếu còn thì nếu có trầy sướt, hoặc thị thương thì có cần phải tiêm chủng ngay sau khi bị thương không?. Đó là trường hợp chủng ngừa khi còn nhỏ, còn trường hợp không chủng ngừa uốn ván hồi còn nhỏ, thì bây giờ nếu bị thương thì tất nhiên là phải chích ngừa, thế nhưng nếu sau đó lại bị thương nữa, thì lần sau có cần phải chích ngừa nữa không? Xin cảm ơn và kính chào quý vi.

Trả lời: Bệnh uốn ván là gìBệnh uốn ván là bệnh gây nên do trực khuẩn gram (-) có tên là Clostridum tetani, bệnh xuất hiện do vết thương bị nhiễm nha bào uốn ván. Trong cơ thể, nha bào phát triển thành vi khuẩn và sinh sản ra chất độc (độc tố).

Điều kiện yếm khí thúc đẩy vi khuẩn phát triển, vì thế với những vết thương có nhiều nguy cơ có nha bào uốn ván như vết thương do vật bằng sắt thép gỉ, vết thương bẩn, có tiếp xúc với đất cát (vì chủ yếu nha bào có nhiều trong đất và phân) thì sau khi làm sạch, nếu băng kín vết thương sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn uốn ván phát triển.Độc tố uốn ván xâm nhập vào các sợi thần kinh ngoại vi của hệ thần kinh trung ương. Tại đây, nó ức chế sự giải phóng các chất ức chế thần kinh như glycin, GABA gây nênn các triệu chứng co cứng cơ, co giật do tăng trương lực cơ, liệt cứng và bệnh nhân có thể chết do suy hô hấp.

Miễn dịch trong bệnh uốn vánLịch sử tiêm uốn ván rất quan trong trong việc xử lý các vết thương và phòng bệnh uốn ván.

Lịch tiêm văcxin uốn ván như sau:

1/ Văcxin Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván (DPT) được tiêm tổng cộng 5 liều như sau:Vào lúc 2 tháng tuổi; 4 tháng tuổi; 6 tháng tuổi; 15 – 18 tháng tuổi và 4 – 6 tuổi. Nên tiêm cho trẻ dưới 7 tuổi.

2/ Td (Giải độc tố uốn ván cùng với giải độc tố bạch hầu liều thấp) nên tiêm cho người trên 7 tuổi như sau:Tiêm vào 14- 16 tuổi, cứ sau 10 năm tiêm nhắc lại một lần.Tiêm ngừa uốn ván thế nào khi có vết thương

3.1. Nếu vết thương sạch, nhỏ, trong vòng 6 giờ và sâu không dưới 1cm, không bẩn:– Nếu không chắc chắn hoặc tiêm chưa đầy đủ (nhỏ hơn 3 liều) (1): Chỉ dùng Td.– Tiêm đầy đủ (3 hoặc hơn 3 liều) và mới tiêm (2): Không tiêm gì cả, để hở vết thương.– Tiêm đầy đủ nhưng trong vòng 5 năm đến 10 năm kể từ lần tiêm gần nhất (3): không tiêm gì cả, chỉ để hở vết thương.– Tiêm đầy đủ, nhưng lần tiêm gần nhất cách đây 10 năm (4): tiêm Td.

3.2. Nếu vết thương có đất, nước bọt, phân, vết thương xuyên thủng, nát, bị cắn, trên 6 giờ, sâu trên 1cm .

– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (1): Tiêm Td và TIG ở hai vị trí khác nhau.– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (2): Không dùng gì cả. – Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (3): Chỉ dùng Td– Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (4): Chỉ dùng Td

Ghi chú:

– Td là giải độc tố uốn ván cùng với giải độc tố bạch hầu liều thấp.

– TIG là globulin miễn dịch chống uốn ván, tạo ra miễn dịch thụ động chống độc tố uốn ván.

– Khi tiêm Td và TIG nên tiêm ở hai vị trí khác nhau, nếu không globulin miễn dịch sẽ gắn với giải độc tố và cả hai mất tác dụng.

Hy vọng thông tin cung cấp sẽ giúp ích cho bạn.

Lưu ý: Chữa bệnh theo chỉ định của Bác sĩ

Bệnh Uốn Ván Và Cách Điều Trị Uốn Ván Hiệu Quả

Là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, uốn ván do trực khuẩn Clostridium tetani và ngoại độc tố hướng thần kinh của nó gây nên. Trực khuẩn uốn ván gây bệnh được tìm thấy lần đầu vào năm 1884.

Mọi đối tượng không phân biệt độ tuổi, giới tính tính đều có thể mắc bệnh uốn ván. Bệnh lây qua da và niêm mạc tổn thương. Nguyên nhân là bởi trực khuẩn uốn ván có trong dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ, cống rãnh, phân trâu bò và gia cầm, cát bụi, đất,… xâm nhập vào các vết thương bị trầy xát sau đó phát triển thành ổ nhiễm trùng gây bệnh uốn ván. Tỉ lệ tử vong do bệnh uốn ván là khá cao, có thể lên đến 90%, đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh. Ngoài ra, những đối tượng như bộ đội và thanh niên xung phong, công nhân xây dựng các công trình, người dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại, người làm việc ở các trang trại, các nông trường chăn nuôi gia súc và gia cầm, người làm vườn cũng có nguy cơ cao mắc uốn ván.

Trung bình 7 ngày sau chấn thương bệnh bắt đầu khởi phát. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp bệnh khởi phát trong 3 ngày hay sau 14 ngày. Bệnh chia ra làm 3 thể là uốn ván toàn thân, uốn ván ở trẻ sơ sinh và uốn ván cục bộ. Trong đó, uốn ván toàn thân là thể bệnh hay gặp nhất với những triệu chứng cơ bản như:

– Cứng cơ hàm, tê lưỡi.

– Co cứng cơ bụng, khó nuốt, cứng cổ.

– Sốt, vã mồ hôi, cơ co thắt.

– Rối loạn hệ thần kinh thực vật.

Dấu hiệu uốn ván ở trẻ sơ sinh gồm có bỏ bú, cứng cơ và các cơ co cứng, nếu không điều trị có thể dẫn đến tử vong. Uốn ván cục bộ ít gặp nhất với biểu hiện rối loạn chức năng một hoặc nhiều dây thần kinh sọ, cứng hàm, tỷ lệ tử vong cao.

Bệnh uốn ván có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm như: viêm phổi, hôn mê, rối loạn nhịp tim, co giật các cơ, co thắt và các nhiễm trùng khác.

Cách phòng ngừa bệnh uốn ván

– Tiêm vắc xin phòng bệnh uốn ván là phương pháp chủ động, hiệu quả và lại ít tốn kém nhất. Người trưởng thành, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, phụ nữ có thai, trẻ sơ sinh,… đều cần được tiêm phòng uốn ván. Trẻ nhỏ thường được tiêm phối hợp 3 loại vắc xin ho gà, uốn ván, bạch hầu. Phụ nữ mang thai lần đầu được khuyến cáo nên tiêm phòng uốn ván vào tuần thứ 27 và tuần thứ 31 của thai kì. Kể cả những người đã từng mắc uốn ván cũng cần phải tiêm chủng vì không có miễn dịch tự nhiên.

– Nếu không may bị thương, vết thương cần phải được cắt lọc, rửa, sát trùng.

– Đến bệnh viện để tiêm phòng uốn ván sau khi đã xử lý sạch vết thương.

– Giữ vết thương sạch sẽ tránh nhiễm trùng đề phòng hoại tử.

– Phụ nữ mang thai dù đã tiêm vắc xin phòng uốn ván vẫn được khuyến cáo thực hành đẻ vô trùng.

Cách điều trị bệnh uốn ván

Theo dõi và xử trí hỗ trợ hô hấp, ngăn ngừa các cơn co cứng cơ, trung hòa độc tố, diệt trừ vi khuẩn là nguyên tắc trong điều trị bệnh uốn ván. Chăm sóc bệnh nhân trong phòng yên tĩnh, hạn chế mọi sự kích thích để giám sát và theo dõi tim, phổi thường xuyên. Đường thở phải được duy trì và bảo vệ. Loại bỏ triệt để các dị vật và xử lý vết thương sạch sẽ.

– Dùng kháng sinh: phương pháp này có thể diêu diệt tận gốc tế bào thực vật. Erythomycin, clindamycin, metronidazol 500mg, penicillin là những thuốc có thể sử dụng. Đồng thời, với nhiễm khuẩn do các vi khuẩn khác gây ra cần phải điều trị đặc hiệu.

– Dùng kháng độc tố uốn ván: dùng globulin miễn dịch uốn ván của người, giúp giảm tỉ lệ tử vong.

– Kiểm soát các cơn co cứng: có thể dùng một hoặc phối hợp các loại thuốc: chlorpromazin, barbiturat, lozazepam, diazepam. Để điều trị các cơn co cứng đe dọa ngừng thở hoặc các cơ co cứng không đáp ứng với thuốc áp dụng thở máy kết hợp với thuốc phong bế thần kinh cơ.

– Điều trị hỗ trợ: phòng chống chảy máu và loét đường tiêu hóa; theo dõi chức năng của thận, bàng quang và ruột; để đề phòng tắc mạch phổi dùng heparin và các chất kháng đông khác; vật lý trị liệu để đề phòng cứng cơ; tăng cường dinh dưỡng; bù nước điện giải; mở khí quản.

– Dùng vắc xin gây miễn dịch chủ động sau khi bệnh đã phục hồi.

Nguyên Nhân Và Cách Phòng Bệnh Uốn Ván Ở Chó

Vi khuẩn Clostridia có thể sống trong bụi bẩn và rất dễ dàng xâm nhập vào một vết thương nhỏ bị nhiễm trùng tạo thành bệnh uốn ván. Các loài động vật khác nhau có độ nhạy khác nhau đối với độc tố uốn ván. Ngựa, con người, vật nuôi như chó có độ nhạy cảm cao trong khi ở mèo thì mức độ mắc bệnh lại rất thấp.

Uốn ván là bệnh khá thường gặp ở chó. Vi khuẩn Clostridium tetani thường đi vào cơ thể qua vết thương và trong điều kiện yếm khí các bào tử nảy mầm rồi sản xuất độc tố. Độc tố lây lan bằng cách đi vào hệ thần kinh ngoại biên tới tủy sống và cũng có thể lan truyền vào cơ thể qua máu. Độc tố liên kết với dây thần kinh vùng bị thương, rồi di chuyển vào hệ thống thần kinh trung ương, tác động đến việc sản sinh axít amin glycine. Điều này gây ức chế đến hệ thần kinh trung ương dẫn đến hoạt động của các cơ bị cản trở, bị co cứng hay co thắt. Khởi đầu là co cứng cơ nhai, sau lan ra các cơ mặt, thân mình và tứ chi. Đặc trưng của bệnh này là đau co thắt cơ, thường ở hàm nên còn được gọi là chứng khít hàm.

Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng bệnh uốn ván sẽ phụ thuộc vào số lượng vi khuẩn Clostridium tetani có khả năng nhập vào cơ thể và số lượng độc tố có sẵn trong cơ thể, nhưng thường các trường hợp uốn ván đều nghiệm trọng và cần phải được tiến hành điều trị ngay lập tức. Bệnh uốn ván không lây lan nhưng rất nguy hiểm đối với vật nuôi và con người mắc bệnh, trong đó có chú cún của bạn. Chó mắc bệnh có thể không sống được quá vài ngày sau khi phát bệnh, toàn thân bị co cứng và uốn vòng như tấm ván gỗ.

Sốt

Táo bón

Đau khi đi tiểu

Chảy nước dãi nhiều

Trán nhăn

Đuôi cứng và khó cử động

Tai cứng và liên tục dựng lên.

Hiện tượng co cứng cơ lan dần khắp của cơ thể, làm cho cơ thể con vật cứng đờ như tấm ván gỗ.

Khó ăn uống.

Khó thở (do sự co cứng của cơ bắp ngực)

Khó mở miệng (do sự co cứng của cơ hàm)

Co giật cơ toàn bộ cơ thể với chuyển động đột ngột bên ngoài, âm thanh, hoặc va chạm.

Tê liệt

Chết do không thể thở được.

Việc chẩn đoán sẽ được thực hiện dựa trên bệnh sử của vết thương trên cơ thể chó, bao gồm những biểu hiện ngay từ ban đầu. Bạn sẽ cần cung cấp thông tin cho bác sĩ thú y về bất kỳ những chấn thương trước đó hoặc những chấn thương có thể dẫn đến nhiễm trùng mà chú chó của bạn mắc phải. Rât nhiều trường hợp nguyên nhân cũng có thể được tìm thấy trong những vết thương thủng sâu nhưng đã được chữa lành ở mặt ngoài da. Sau khi tìm hiểu lịch sử những vết thương một cách chi tiết, bác sĩ thú y sẽ tiến hành những xét nghiệm đầy đủ để tìm cách chữa trị.

Phương phướng chẩn đoán bệnh thường sẽ dựa trên những dấu hiệu lâm sàng của bệnh uốn ván và các xét nghiệm đi kèm bao gồm xét nghiệm máu (CBC), xét nghiệm sinh hóa, và phân tích nước tiểu.

a. Xét nghiệm máu

Xét nghiệm máu (CBC) là một phương pháp chẩn đoán rất quan trọng để cung cấp thông tin về sức khỏe của chó. Là xét nghiệm được sử dụng để đo lường và đánh giá tế bào lưu thông trong máu, kiểm tra số lượng thực tế các tế bào hồng cầu và bạch cầu, nhằm phát hiện các rối loạn, nhiễm trùng, thiếu máu… Chó mắc bệnh uốn ván sẽ có một tỉ lệ thấp bất thường hoặc quá cao của các tế bào bạch cầu trong máu.

b. Xét nghiệm sinh hóa

Xét nghiệm sinh hóa nhằm đánh giá chức năng của cơ quan nội tạng, đo nồng độ và xác định mức độ của các enzym lưu hành trong máu. Chó bị bệnh uốn ván sẽ có nồng độ enzyme Creatine Phosphokinase (CPK) cao trong máu. Enzyme này chủ yếu có trong tim, não và cơ xương, nhưng mức độ của enzyme này tăng trong máu là nhằm đáp ứng với quá trình co cứng và hủy hoại các cơ bắp do nhiễm khuẩn uốn ván.

c. Xét nghiệm nước tiểu

Chó mắc bệnh thường sẽ có các kết quả xét nghiệm nước tiểu bình thường, trừ kết quả về hàm lượng Myoglobin trong nước tiểu cao (vì Myoglobin là một loại protein thường được tìm thấy trong cơ bắp của động vật- khi các cơ co thắt, co cứng liên tục thì loại protein này bắt đầu xuất hiện trong nước tiểu do được sản sinh từ các cơ bị hủy hoại). Điều này dẫn đến việc chúng có mật độ cao trong nước tiểu. Ngoài ra, một vài mẫu mô và chất lỏng từ vết thương cũng sẽ được lấy để kiểm tra nhằm xác nhận sự hiện diện của khuẩn uốn ván trong các vết thương của chó.

Trong giai đoạn diễn biến của bệnh, chú chó của bạn sẽ cần phải nhập viện. Việc chăm sóc và điều dưỡng thường được yêu cầu kéo dài liên tục trong thời gian 3-4 tuần. Nếu chú chó của bạn không tự ăn được, bác sĩ thú y có thể sẽ đặt một ống dẫn thức ăn trực tiếp vào dạ dày của nó để duy trì nhu cầu năng lượng và quá trình trao đổi chất. Dịch truyền tĩnh mạch có thể được sử dụng để tránh mất nước. Một điều cần lưu ý là độc tố uốn ván thường tấn công vào các cơ bắp và hệ thần kinh nên ở một số chó có độ nhạy cảm cao sẽ không thích ứng được với biện pháp đặt truyền ống này, dẫn đến trường hợp làm trầm trọng thêm các triệu chứng của bệnh.

Một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình chăm sóc điều dưỡng là giữ cho chú chó trong một môi trường có ánh sáng thấp và ít tiếng ồn, vì những con vật này cực kỳ nhạy cảm với những va chạm, âm thanh và ánh sáng.

Chú chó của bạn sẽ được giữ an thần để ngăn chặn tình trạng gia tăng thêm các triệu chứng. Con vật sẽ được uống hoặc tiêm thuốc kháng sinh nhằm kiểm soát sự lây lan của nhiễm khuẩn, giảm thiểu co thắt cơ và co giật, hạn chế các độc tố và ngăn chặn nó tiếp tục liên kết với các tế bào thần kinh. Thuốc kháng sinh cũng sẽ được bôi xung quanh vùng ngoại vi của vết thương để kiểm soát nhiễm trùng.

Các loại thuốc có thể sẽ giữ cho chú chó nằm im trong một thời gian dài và điều này cũng có thể gây ra những tác dụng phụ khi chúng nằm ở một tư thế trong một thời gian dài. Bạn nên để chúng nằm trên chiếc giường mềm, và điều chỉnh tư thế cho chúng để ngăn chặn tình trạng lở loét ở phần cơ thể tiếp xúc với giường bệnh quá lâu.

Trong trường hợp chú chó của bạn gặp khó khăn trong việc hít thở, một ống dẫn sẽ được đặt vào khí quản để tạo điều kiện cho chúng hít thở bình thường cho đến khi các cơ bắp hồi phục sau nhiễm trùng. Ống thông nước tiểu sẽ được đặt để thông nước tiểu nếu chúng không thể đi tiểu được. Và chúng sẽ được uống thuốc xổ trong trường hợp bị táo bón.

Khi chú chó của bạn đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm, bác sỹ sẽ cho phép bạn mang chúng về nhà để chăm sóc. Như đã đề cập ở trên, điều quan trọng là phải thay đổi vị trí nghỉ ngơi của chú chó sau vài giờ để ngăn ngừa viêm loét. Giữ cho vết thương sạch sẽ và đến bác sĩ thú y nếu bạn nhận thấy bất kỳ sự thay đổi về màu sắc của vết thương hoặc khi vết lở loét bắt đầu xuất hiện. Nếu không, chú chó của bạn sẽ rất đau đớn và khó chịu.

Bạn cần phải sắp xếp một vị trí trong ngôi nhà để chú chó của bạn có thể nghỉ ngơi thoải mái, nhẹ nhàng , tránh xa những vật nuôi khác,hay trẻ nhỏ và những nơi ồn ào. Hạn chế di chuyển để bàng quang và ruột của chúng ổn định trong thời gian phục hồi. Cần phải sử dụng thuốc giảm đau một cách thận trọng và làm theo tất cả các hướng dẫn của bác sĩ thú y một cách cẩn thận để phòng ngừa tình trạnh sử dụng thuốc quá liều hoặc quá ít.

Bạn sẽ cần phải đến gặp bác sĩ thú y thêm vài lần nữa để kiểm tra và đánh giá tình trạng phục hồi của chú chó. Việc phục hồi phụ thuộc nhiều vào mức độ nghiêm trọng của bệnh. Nếu chú chó bị nhiễm trùng nặng thì cơ hội hồi phục hoàn toàn là rất thấp. Cần tuân thủ tốt những yêu cầu được đưa ra cho chú cún trong suốt thời gian điều trị cho đến khi chúng phục hồi hoàn toàn. Điều này cần sự cam kết mạnh mẽ và lâu dài từ phía chủ nuôi để cải thiện cơ hội sống sót và bình phục cho chú chó.

Khi chú chó của bạn bị thương, phải kiểm tra vết thương và xử lý chống nhiễm trùng bằng sát trùng cục bộ vết thương, sau đó phải để hở, hoặc mở rộng vết thương nhằm giết chết các vi khuẩn gây bệnh uốn ván.

Tiêm phòng vaccine uốn ván ngay sau khi chúng bị vết thương bẩn, sâu và kín hoặc ngay sau khi bạn nghi ngờ chú chó của bạn có thể đã bị nhiễm vi khuẩn Clostridium tetani.

Nếu các phẫu thuật cho chú chó của bạn không bảo đảm vô trùng tốt, nên để hở hoặc không băng bó vết thương.

Cần có tư vấn của bác sĩ thú y khi chó bị tai nạn, xử lý vết thương.

Khi đã có dấu hiệu lên cơn uốn ván cần có bác sĩ thú y điều trị bằng các biện pháp như: tiêm thuốc kháng sinh, thở máy thở Ôxy, an thần, truyền dịch…

Đối với chó sơ sinh, cần sát trùng rốn của chúng bằng dung dịch cồn iot 5%, dùng panh kẹp cầm máu rốn và không nên buộc chỉ để cầm máu rốn.

Ngoài ra bạn cũng nên chú ý quan sát và giữ gìn khi thả rông các chú cún để hạn chế những vết thương, vết cắn, vết bỏng, tai nạn… những chấn thương không đáng có trên cơ thể chúng.

Bệnh Uốn Ván: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Cách Phòng Ngừa

Gánh nặng bệnh tật do uốn ván gây nên vẫn đang hiện hữu từng ngày. Nhiều trường hợp bị uốn ván nguy kịch chỉ từ vết thương nhỏ như gà mổ, heo cạp, bò đạp, gai đâm… và hầu hết người bệnh đều không nghĩ mình sẽ mắc bệnh uốn ván nên chủ quan trong điều trị, không đi tiêm phòng (chích ngừa) kịp thời và phải nhập viện trong tình trạng bệnh đã tiến triển nặng…

Hôn mê sâu vì vết xước nhỏ do gai đâm!

Đầu năm 2020, ông Đ.V.H (sinh năm 1963, Tân Lạc, Hòa Bình) nhập viện Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình cấp cứu trong tình trạng suy hô hấp, toàn thân tím tái, co giật liên tục. Được biết, trước đó 7 ngày, bệnh nhân có vết thương vùng bàn chân phải do giẫm phải gai nhọn. Tuy nhiên, do chủ quan, ông H. không sát trùng, không để hở vết thương.

Nghĩ vết thương không có gì nghiêm trọng nên ông H. chỉ rửa sơ vết thương và để cho tự lành. Tuy nhiên, 5 ngày sau, bệnh nhân xuất hiện sốt, sưng nề, mưng mủ vùng vết thương, cứng hàm tăng dần. Một tuần sau, bệnh nhân không há được miệng, gồng cứng toàn thân, co giật từng cơn, suy hô hấp. Tại bệnh viện, bệnh nhân đã được mở khí quản và trợ thở bằng máy.

Bác sĩ Hoàng Công Tình, Trưởng khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình cho biết: “Hai hàm răng cắn chặt nên bệnh nhân không thể thở và ho khạc được khiến nước bọt, dịch hầu họng ứ đọng ở khoang miệng dẫn đến nguy cơ trào ngược vào phổi. Ngoài ra, bệnh nhân gồng cứng (đặc biệt là cơ bụng), co giật liên tục nên dịch và thức ăn ở dạ dày rất dễ trào ngược vào phổi làm tình trạng suy hô hấp nặng nề hơn. Nếu không mở khí quản nhanh để tạo đường thở qua cổ, bệnh nhân có thể tử vong do suy hô hấp hoặc sặc”.

Bệnh uốn ván là gì mà nguy hiểm đến thế? Vi khuẩn gì gây bệnh uốn ván? Bệnh nhân bị uốn ván như thế nào? Bài viết với sự tư vấn chuyên môn của chúng tôi Nguyễn Hiền Minh – Phó giám đốc Y khoa Hệ thống Trung tâm tiêm chủng cho Trẻ em và Người lớn VNVC sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về bệnh uốn ván.

Uốn ván là một loại bệnh cấp tính nguy hiểm, nguy cơ tử vong rất cao, do ngoại độc tố (Tetanus exotoxin) của vi khuẩn uốn ván (Clostridium tetani) phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí.

Các bào tử của vi khuẩn uốn ván sống trong đất, đất bón phân, đặc biệt là phân ngựa. Nhiễm khuẩn sẽ xảy ra khi bào tử của vi khuẩn uốn ván xâm nhập cơ thể thông qua các thương tổn trên da hoặc vết thương. Bệnh có thể gặp bất kỳ thời gian nào trong năm, không mang tính chất mùa rõ rệt.

Các độc tố (chất độc) do vi khuẩn Clostridium tetani tiết ra sẽ ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương, gây ra các triệu chứng co thắt cơ, đau và các vấn đề về thở.

Bệnh uốn ván là một trong những nguyên nhân thường gặp gây tử vong ở nhiều nước đang phát triển thuộc châu Á, châu Phi và Nam Mỹ, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng nhiệt đới. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới trong những năm cuối của thế kỷ 20, mỗi năm có khoảng 500.000 trẻ bị chết vì uốn ván sơ sinh ở các nước đang phát triển. Tỷ lệ chết do uốn ván sơ sinh rất cao, có thể lên tới trên 80% tổng số trường hợp mắc, nhất là những ca có thời gian ủ bệnh ngắn. Tỷ lệ chết do uốn ván nói chung có thể dao động từ 10 – 90% tổng số trường hợp mắc, cao nhất ở trẻ nhỏ và người có tuổi.

Tiêm vắc xin uốn ván cho phụ nữ ở độ tuổi sinh nở là biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất để phòng bệnh uốn ván sơ sinh cho cả mẹ và con. Sau khi tiêm vắc xin uốn ván cho phụ nữ có thai, kháng thể hình thành trong cơ thể mẹ sẽ truyền cho thai nhi để bảo vệ cho trẻ không bị mắc uốn ván sơ sinh, đồng thời kháng thể này cũng bảo vệ cho chính bà mẹ trong quá trình sinh đẻ.

Thông thường nha bào uốn ván xâm nhập vào cơ thể qua các vết thương sâu bị nhiễm đất bẩn, bụi đường, phân người hoặc phân súc vật, qua các vết rách, vết cắn của động vật, vết bỏng, vết thương dập nát, gãy xương phức tạp (gãy xương hở), vết thương nhẹ (chẳng hạn như đinh sắt bị rỉ hoặc gai đâm), hoặc do tiêm chích nhiễm bẩn…

Đôi khi có trường hợp thai phụ mắc bệnh uốn ván sau phẫu thuật nạo thai trong những điều kiện không vệ sinh.

Trẻ sơ sinh bị bệnh uốn ván sơ sinh là do nha bào uốn ván xâm nhập qua dây rốn trong khi sinh đẻ vì cắt rốn bằng dụng cụ bẩn hoặc sau khi sinh, trẻ không được chăm sóc rốn sạch sẽ và băng đầu rốn bị cắt không vô khuẩn nên đã bị nhiễm nha bào uốn ván.

Các triệu chứng của bệnh uốn ván được biểu hiện là những cơn co cứng cơ kèm theo đau, trước tiên là các cơ nhai, cơ mặt, cơ gáy và sau đó là cơ thân.

Trẻ sơ sinh bị uốn ván sơ sinh vẫn bú và khóc bình thường trong 2 ngày đầu sau sinh (bệnh xuất hiện vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 28 sau khi sinh) sau đó không bú được, co giật. Hầu hết trẻ đã nhiễm bệnh thường tử vong.

Diễn tiến bệnh

Thời gian ủ bệnh thường trong khoảng 3 đến 10 ngày nhưng cũng có thể tới 3 tuần. Thời gian ủ bệnh càng ngắn thì nguy cơ tử vong càng cao. Ban đầu người bệnh sẽ có những cơn co cứng cơ và đau dữ dội, thường bắt đầu ở hàm và sau đó từ từ tiến tới phần còn lại của cơ thể, kéo dài vài phút, thường được biểu hiện như:

Co cứng cơ nhai và các cơ ở mặt làm cho bệnh nhân có nét mặt “cười nhăn”.

Co cứng cơ gáy, cơ lưng, cơ bụng, đôi khi co cứng ở vùng bị thương.

Cong ưỡn người ra sau, thẳng cứng cả người như tấm ván, cong người sang một bên, gập người ra phía trước. Các cơn co giật toàn thân thường xảy ra do bị kích thích bởi va chạm, ánh sáng chói, tiếng ồn…

Đối với những trẻ bị uốn ván sơ sinh sẽ có biểu hiện quấy khóc, bỏ bú, miệng chúm chím, trẻ đói nhưng không bú được nên càng khóc, lúc này nếu đè lưỡi ấn xuống thì thấy phản ứng lại (dấu hiệu cứng hàm). Sau đó trẻ có những cơn co giật và co cứng, uốn cong người, đầu ngả ra sau, hay tay khép chặt kèm theo sốt, rối loạn tiêu hóa.

Những cơn co thắt này có thể nghiêm trọng đến nỗi khiến trẻ co gồng đến gãy xương. Trẻ bị bệnh uốn ván cũng có thể bị sốt, đổ mồ hôi, nhức đầu, khó nuốt, cao huyết áp và nhịp tim nhanh, gấp.

Nếu không được điều trị kịp thời, uốn ván sẽ dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như:

Gãy xương: thông thường sẽ bị co thắt cơ hoặc co giật nhưng trường hợp nặng có thể bị gãy xương.

Viêm phổi: Nếu hít vào dịch tiết của dạ dày sẽ bị nhiễm trùng hô hấp dần dần phát triển thành viêm phổi.

Co thắt thanh quản: gây khó thở, ngạt thở

Động kinh: Nếu nhiễm trùng lan đến não, người bị uốn ván có thể gặp phải tình trạng tương tự như động kinh.

Thuyên tắc phổi: Một mạch máu trong phổi có thể bị tắc nghẽn và ảnh hưởng đến hệ hô hấp và tuần hoàn. Bệnh nhân cần điều trị bằng oxy và thuốc chống đông máu.

Suy thận nặng (suy thận cấp): Co thắt cơ nghiêm trọng có thể dẫn đến sự phá hủy cơ xương khiến protein bị rò rỉ vào nước tiểu gây suy thận nặng.

Cách phòng ngừa bệnh uốn ván

Theo chúng tôi Nguyễn Hiền Minh – Phó Giám đốc Y khoa Trung tâm tiêm chủng cho Trẻ em và Người lớn VNVC khuyến cáo: khi có vết thương trên cơ thể, cần phải rửa sạch, sát trùng, để hở vết thương, không để vết thương bị bịt kín tạo đường hầm, không đắp bất cứ thứ gì lên vết thương để tránh viêm nhiễm. Nếu bị trầy xước, đâm vào đinh, sắt, cát, bụi bẩn… cần xử lý sạch vết thương ngay, sau đó đến bệnh viện để khám và điều trị đề phòng uốn ván. Giữ vệ sinh sạch sẽ vết thương tránh nhiễm trùng đề phòng hoại tử…

Việc tiêm phòng vắc xin uốn ván được khuyến cáo cho tất cả trẻ sơ sinh, trẻ em, trẻ vị thành niên và người lớn/người lớn tuổi. Liệu trình cơ bản gồm 3 – 4 mũi phụ thuộc vào khuyến cáo của từng quốc gia và sau đó tiêm nhắc lại mỗi 10 năm.

Ở trẻ em, vắc xin uốn ván được sử dụng dưới dạng vắc xin phối hợp giúp phòng ngừa thêm các bệnh lý khác có trong vắc xin nhằm giảm số mũi tiêm và giảm đau cho trẻ. Điều quan trọng là trẻ cần được tiêm đầy đủ liệu trình vắc xin uốn ván đúng thời gian để duy trì tình trạng miễn dịch chống lại bệnh.

Các loại Vắc xin phòng uốn ván cho trẻ em và người lớn

Phòng bệnh

Ho gà, bạch hầu, uốn ván,bại liệt và các bệnh do HIB

Ho gà, bạch hầu, uốn ván, bại liệt, viêm gan B và các bệnh do HIB

Ho gà, bạch hầu, uốn ván, bại liệt

Bạch hầu, uốn ván, ho gà

Bạch hầu, uốn ván, ho gà

Đối tượng

Trẻ từ 2 tháng tuổi đến 24 tháng tuổi.

Trẻ từ 2 tháng tuổi đến 13 tuổi

Trẻ từ 4 tuổi đến người lớn 64 tuổi.

Trẻ từ 4 tuổi trở lên

Lịch tiêm

+ 3 mũi chính: Tiêm khi trẻ được 2, 3, 4 tháng tuổi;

+ Mũi thứ 4 nhắc lại khi trẻ được 16 đến 18 tháng tuổi.

+ 3 mũi chính: Tiêm khi trẻ được 2, 3, 4 tháng tuổi;

+ Mũi thứ 4 nhắc lại khi trẻ được 16 đến 18 tháng tuổi

+ Chủng ngừa nhắc lại từ 5 đến 13 tuổi: 1 mũi.

+ Tiêm 1 mũi

+ Nhắc lại sau mỗi 10 năm

Sau khoảng thời gian từ 05 – 10 năm nên tiêm nhắc lại để bảo vệ cơ thể bởi vắc xin uốn ván không tạo ra miễn dịch bền vững suốt đời.

Người lớn chưa bao giờ tiêm vắc xin uốn ván thì nên đến gặp bác sĩ để biết thêm thông tin. Người lớn bị các vết thương có nguy cơ cao bị uốn ván cũng nên được tiêm vắc xin uốn ván mũi nhắc lại nếu như họ chưa được tiêm nhắc lại trong vòng 5 năm trước đó.

Vắc xin phòng uốn ván cho phụ nữ chuẩn bị mang thai và mang thai

Lịch tiêm

+ Liều 1: Tiêm càng sớm càng tốt khi có thai lần đầu

+ Liều 2: cách liều đầu tiên 1 tháng

+ Liều 3: cách liều 2 tối thiểu 6 tháng hoặc trong thời kỳ có thai sau

Tiêm 1 mũi. Chủng ngừa nhắc lại mỗi 10 năm 1 lần.

Tiêm 2 mũi, nên tiêm vào 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ, mũi tiêm cuối nên tiêm trước khi sinh 1 tháng.

Xem xét: Tiêm 1 mũi trong 3 tháng cuối thai kỳ

Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tất cả phụ nữ đang trong độ tuổi sinh đẻ (có thai hoặc không có thai) đều cần được tiêm phòng (chích ngừa) uốn ván để tạo ra kháng thể giúp cả mẹ và trẻ sơ sinh được bảo vệ trong trường hợp không may bị vi khuẩn uốn ván xâm nhập.

Với sứ mệnh đem lại dịch vụ tiêm chủng (chích ngừa) chất lượng cao, tiện lợi, VNVC đầu tư hệ thống cơ sở vật chất hiện đại với kho vắc xin GSP đạt chuẩn quốc tế cùng hệ thống phòng khám, phòng tiêm, các phòng chức năng tiện dụng.

Trung tâm cũng trang bị những tiện nghi cho những bé còn nhỏ như phòng thay tã, phòng pha sữa, phòng cho bé bú, phòng thay bỉm tã miễn phí. Khu vực phòng chờ rộng rãi, được khử khuẩn thường xuyên, wifi và nước uống miễn phí luôn được cung cấp cho khách hàng sử dụng dịch vụ.

Châu Quỳnh

BÀI VIẾT LIÊN QUAN