Bệnh Uốn Ván Ở Trẻ Sơ Sinh / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Phòng Bệnh Uốn Ván Trẻ Sơ Sinh

Phòng bệnh uốn ván trẻ sơ sinh

Uốn ván trẻ sơ sinh là một bệnh nặng do hệ thần kinh trung ương của trẻ bị nhiễm độc bởi độc tố của uốn ván Clostridium tetani. Vì vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể trẻ qua rốn nên còn gọi là uốn ván rốn.

Nếu sản phụ sinh con tại nhà hoặc ở cơ sở y tế tuyến đầu hay trẻ bị đẻ rơi không bảo đảm điều kiện vệ sinh thì nguy cơ bị mắc uốn ván là điều khó tránh khỏi.

Đặc điểm bệnh uốn ván trẻ sơ sinh

Trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani tiết ra một loại ngoại độc tố mà các nhà khoa học đã tách ra về mặt hóa học gồn hai thành phần, một thành phần có tác dụng gây tan máu gọi là tetanolysin không có ý nghĩa lâm sàng và một thành phần gây co giật các cơ gọi là tetanospasmin; thực tế các triệu chứng cơ bản của bệnh uốn ván là do tetanospasmin gây ra. Độc tố này tan trong nước, bị phá hủy khi đun nóng lên 70 o C, có độc lực rất mạnh; chỉ cần một liều nhỏ khoảng 1/50.000ml là cũng đủ làm chết một con chuột. Thực nghiệm cho thấy độc tố đi từ vết thương có trực khuẩn uốn ván qua máu hoặc bạch huyết vào các trục của dây thần kinh ngoại vi rồi bám vào các trung tâm thần kinh. Các nhà khoa học đều nhận thấy ái tính cao của độc tố uốn ván với tế bào thần kinh và khi độc tố đã bám vào tế bào thần kinh thì không thể tách ra được, điều này là cơ sở rất quan trọng trong điều trị.

Trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani

Trong uốn ván rốn trẻ sơ sinh, trực khuẩn Clostridium tetani xâm nhập vào cơ thể của trẻ ở rốn qua vết cắt bằng dụng cụ có mang nha bào uốn ván như dao, kéo hoặc do bông băng không được tiệt trùng tốt. Thực tế đã ghi nhận có trường hợp cắt rốn bằng kéo không tiệt trùng kỹ hoặc chỉ ngâm nước nóng khoảng 5 – 10 phút; cắt rốn bằng que nứa, liềm cắt cỏ hoặc dao bổ cau trầu… Mặc dù trực khuẩn uốn ván đã được phát hiện từ lâu nhưng bệnh uốn ván vẫn còn lưu hành là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Ở nước ta bệnh uốn ván rốn vẫn còn gặp ở vùng nông thôn, miền núi do điều kiện tiệt trùng kém khi hỗ trợ sinh sản, thậm chí xử trí can thiệp không bảo đảm yêu cầu vệ sinh ở những trẻ bị đẻ rơi.

Triệu chứng lâm sàng và tiến triển bệnh

Về lâm sàng, uốn ván trẻ sơ sinh có thời kỳ ủ bệnh trung bình khoảng 5 – 12 ngày, đôi khi các triệu chứng xuất hiện sớm vào ngày thứ 2 hoặc muộn hơn đến ngày thứ 18. Bệnh khởi đầu với triệu chứng cứng hàm do cơ hàm bị co cứng, trẻ không há được miệng để bú sữa. Cứng hàm là triệu chứng quan trọng với đặc điểm cứng hàm liên tục và tăng lên khi làm há miệng trẻ bằng đè lưỡi. Sau đó các cơ mặt, cổ, lưng, tứ chi đều trong trạng thái co cứng; trẻ nằm cứng đờ, tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, nét mặt đau khổ đặc biệt với dấu hiệu trán nhăn, môi chúm lại, hai mép bị kéo lên trên. Trong tình trạng cứng đờ, trẻ có những cơn kịch phát gây co giật, thở không đều, da tím tái. Các cơ co giật có thể ngắn hoặc dài, nhanh hoặc chậm. Những cơn kịch phát này có thể gây ngừng thở nếu không được cấp cứu kịp thời. Những cơn kịch phát tự nhiên xuất hiện thường do sự kích thích của tiếng động, ánh sáng… Ngoài các triệu chứng chính đã nêu, đa số trường hợp trẻ đều bị sốt; một số có thể sốt trên 41 oC, một số khác lại có thân nhiệt xuống dưới 35 o C và những rối loạn thân nhiệt như vậy có tiên lượng xấu. Đồng thời rốn bao giờ cũng bị nhiễm trùng nên ướt, chảy nước vàng hoặc có mủ; một số trẻ có triệu chứng viêm tấy đỏ. Về xét nghiệm, do tình trạng nhiễm khuẩn rốn nên bạch cầu máu tăng, nhất là tăng bạch cầu đa nhân trung tính; việc xét nghiệm tìm trực khuẩn uốn ván ở rốn không cần thiết.

Về tiến triển bệnh, nếu có diễn biến tốt thì các cơ co giật và triệu chứng cứng hàm ở trẻ sẽ giảm dần, miệng có thể há ra dần. Bệnh kéo dài trung bình khoảng 3 – 4 tuần nhưng triệu chứng tăng trương lực cơ có thể kéo dài hơn 1 tháng. Trường hợp có diễn biến nặng, có thể có biến chứng như viêm phế quản phổi, suy dinh dưỡng; nếu tiến triển xấu sẽ dẫn đến tử vong. Mặc dù hiện nay có những tiến bộ của y học hiện dại nhưng bệnh uốn ván trẻ sơ sinh vẫn là loại bệnh gây tử vong cao, chiếm tỉ lệ khoàng 30 – 80% các trường hợp. Trẻ thường tử vong trong khoảng 3 đến 6 ngày đầu ở bệnh viện do các cơn co giật làm ngừng thở. Những yếu tố có thể giúp bác sĩ chẩn đoán tiên lượng là nếu thời gian ủ bệnh ngắn thì tỉ lệ tử vong càng cao; những trẻ có biểu hiện triệu chứng uốn ván sau 7 ngày thường có tỉ lệ sống cao hơn trẻ có thời gian ủ bệnh dưới 7 ngày; đồng thời cơn kịch phát co giật càng nhiều và càng dài thì trẻ càng có nguy cơ ngừng thở nên tiên lượng xấu; ngoài ra trẻ có sự rối loạn thân nhiệt với nhiệt độ thấp dưới 35 oC hoặc quá cao khoảng 40 – 41 o C cũng đều có tiên lượng xấu.

Chẩn đoán và điều trị bệnh

Chẩn đoán bệnh uốn ván sơ sinh chủ yếu căn cứ vào các triệu chứng thực thể như cứng hàm, co cứng toàn thân, co giật từng cơn với dấu hiệu ngạt thở và nét mặt đau đớn rất đặc biệt của trẻ. Trong trường hợp không điển hình, chẩn đoán phải phân biệt với các bệnh lý gồm: xuất huyết não và màng não xuất hiện trong vài ngày đầu sau khi sinh, trẻ co giật, tím tái, ngừng thở nhưng không cứng hàm liên tục, không có nét mặt đau khổ… Viêm màng não mủ ở trẻ sơ sinh với biểu hiện trẻ không bị cứng hàm ngoài cơn co giật, cần tìm ổ nhiễm khuẩn với các triệu chứng màng não như thóp phồng, cổ cứng, dấu hiệu Kernig. Bệnh Tetani ở trẻ sơ sinh với biểu hiện cơn co giật, có dấu hiệu Chvosteck, trường hợp nghi ngờ phải xét nghiệm canxi huyết. Bị dị tật khớp hàm làm cho trẻ không há miệng được nhưng trường hợp này ít gặp.

Điều trị bệnh uốn ván trẻ sơ sinh nhằm mục đích trung hòa độc tố uốn ván còn lưu hành ở trong máu, săn sóc trẻ sơ sinh trong thời gian độc tố còn bám vào tổ chức thần kinh, điều trị vết thương rốn có trực khuẩn uốn ván gây bệnh. Chủ yếu việc điều trị bệnh uốn ván trẻ sơ sinh bao gồm các phương pháp điều trị đặc hiệu, điều trị cơn co giật, nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ.

Điều trị đặc hiệu bằng cách tiêm huyết thanh chống uốn ván. Có hai loại huyết thanh là huyết thanh chống uốn ván lấy từ người với ưu điểm không gây phản ứng, tồn tại lâu, tiêm từ 5.000 – 10.000 đơn vị và huyết thanh chống uốn ván lấy từ huyết thanh ngựa được dùng rộng rãi hơn với liều lượng tiêm từ 10.000 – 20.000 đơn vị; huyết thanh chống uốn ván thường được tiêm dưới da hay tiêm bắp thịt.

Điều trị các cơn co giật có vai trò khá quan trọng vì các cơ co giật có thể gây tử vong đột ngột. Có thể dùng các thuốc an thần và giãn cơ như: Penthobarbital và Secobarbital tiêm tĩnh mạch để làm giãn cơ bắp, sau đó dùng Barbiturate có tác dụng lâu như Phenobarbital. Dùng Meprobamate làm tăng tác dụng của Barbiturate. Có thể cho thêm Chlorpromazine hoặc siro Chloral uống và Diazepam, cần theo dõi chặt chẽ vì thuốc Hydrate Chloral có tác dụng ức chế hô hấp. Lưu ý phải bảo đảm thường xuyên làm thông đường thở. Trường hợp nhẹ, dùng một hoặc hai loại thuốc an thần như Chlorpromazine, Diazepam; nếu có dấu hiệu suy hô hấp phải đặt nội khí quản, mỗi giờ cần hút đờm dãi cho đến khi giai đoạn cấp tính vượt qua. Đối với trường hợp nặng, theo một số nhà khoa học phải đặt nội khí quản lúc đầu, sau đó mở khí quản đặt ống thông để thông khí cho cả hai phổi; phương pháp điều trị phải được một tập thể bác sĩ lành nghề theo dõi chặt chẽ.

Tiêm chủng vắcxin cho người mẹ để phòng bệnh uốn ván cho trẻ sơ sinh là biện pháp hiệu quả Các biện pháp phòng bệnh

Việc nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ cũng cần được quan tâm, phải đặt trẻ trong lồng ấp có nồng độ oxy và nhiệt độ thích hợp; nếu không có lồng ấp phải đặt trẻ trong một phòng yên tĩnh, ít ánh sáng. Không nên lay động hoặc bế ẳm trẻ để tránh các cơ co giật. Trong giai đoạn đầu nếu trẻ co giật nhiều thì nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch, bảo đảm nhu cầu về nước, điện giải và các chất dinh dưỡng; khi trẻ đỡ co giật nên cho trẻ ăn sữa mẹ qua ống thông mũi-dạ dày số lượng khoảng 50ml với 8 lần mỗi ngày. Nếu không có điều kiện nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch, nên đặt ống thông mũi-dạ dày ngay sau khi vào bệnh viện để có thể bơm sữa mẹ và cho uống thuốc kháng sinh, vitamin…

Điều trị vết thương ở rốn bằng cách rửa sạch rốn nhiễm trùng với nước oxy già và dùng kháng sinh. Kháng sinh chỉ có tác dụng kiềm chế trực khuẩn uốn ván nhưng không kiềm chế được việc sản xuất độc tố của vi khuẩn, đồng thời kháng sinh cũng có thể điều trị được tình trạng bội nhiễm.

Biện pháp cơ bản nhất để phòng bệnh uốn ván trẻ sơ sinh là cần tăng cao chi phí cho việc chủ động phòng ngừa bệnh uốn ván; phải loại trừ một số tập quán, thói quen sinh đẻ, đỡ đẻ phản khoa học; cần cải thiện điều kiện vệ sinh của các cơ sở y tế ở tuyến đầu nhất là phòng sinh của các nhà hộ sinh. Đồng thời cần trang bị đầy đủ các phương tiện đỡ đẻ và phương tiện tiệt trùng theo quy định của ngành y tế; phải theo dõi tốt phụ nữ có thai, tránh tình trạng sinh đẻ tại nhà và trường hợp đẻ rơi; phải đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để có nữ hộ sinh lành nghề; tiêm chủng vắcxin đầy đủ cho trẻ em, đối với trẻ sơ sinh mắc bệnh uốn ván ngoài việc tiêm huyết thanh chống uốn ván cần tiêm giải độc tố uốn ván; lưu ý trong tuần lễ thứ 4 đến tuần lễ thứ 6 phải tiêm lần thứ hai và sau đó tiêm lần thứ ba lúc đó mới có miễn dịch chắc chắn phòng bệnh uốn ván. Ngoài ra phải tiêm vắcxin phòng bệnh uốn ván cho sản phụ vì người mẹ có thể truyền cho thai nhi miễn dịch chống uốn ván, một số nhà khoa học đã đề xuất tiêm cả giải độc tố cho người mẹ; phương pháp này tỏ ra an toàn và có hiệu quả; các nhà khoa học cũng khuyến cáo nên tiêm 2 lần, khoảng cách giữa 2 lần tiêm càng lớn càng tốt, các kháng thể của người mẹ truyền sang con qua nhau thai sẽ tăng nếu khoảng cách giữa hai lần tiêm càng dài; đối với sản phụ chưa lần nào tiêm vắcxin phòng bệnh uốn ván thì tốt nhất là tiêm lần thứ nhất vào tháng thứ ba đến tháng thứ năm của thời kỳ thai nghén, lần thứ hai vào tháng thứ sáu hoặc tháng thứ bảy; tuy nhiên lần thứ nhất có thể tiêm muộn hơn nhưng lần thứ hai phải tiêm trước ngày sinh khoảng 2 tuần.

Lời khuyên của thầy thuốcĐể ngăn ngừa bệnh uốn ván trẻ sơ sinh có hiệu quả, cần tiêm vắcxin phòng bệnh với tổng số lần tiêm phòng ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 15 – 35 tuổi là 5 mũi, trong đó tiêm phòng cho sản phụ lần đầu mang thai là 2 mũi cơ bản. Lịch tiêm vắcxin phòng bệnh uốn ván cho phụ nữ và sản phụ vào các khoảng thời gian quy định: Tiêm lần nhứ nhất (mũi tiêm 1) cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ hoặc tiêm sớm cho sản phụ có thai lần đầu. Tiêm lần thứ hai (mũi tiêm 2) ít nhất 1 tháng sau lần tiêm thứ nhất hoặc tiêm cho sản phụ mang thai trước khi sinh ít nhất 1 tháng. Tiêm lần thứ ba (mũi tiêm 3) ít nhất 6 tháng sau lần tiêm thứ hai hoặc kỳ có thai lần sau. Tiêm lần thứ tư ít nhất 1 năm sau lần tiêm thứ ba hoặc kỳ có thai lần sau. Tiêm lần thứ năm (mũi tiêm 5) ít nhất 1 năm sau lần tiêm thứ tư hoặc kỳ có thai lần sau. Lưu ý nên tiêm nhắc lại mũi thứ 6 khi thời điểm tiêm mũi thứ 5 đã trên 10 năm.

(Nguồn: suckhoedoisong.vn)

Chủ Động Ngừa Uốn Ván Rốn Sơ Sinh

Thời kỳ ủ bệnh. Kể từ khi cắt rốn tới khi có dấu hiệu cứng hàm là thời kỳ không có gì báo trước về bệnh uốn ván, thời gian ủ bệnh từ 4-15 ngày, trung bình là 7 ngày, ủ bệnh ngắn bệnh càng nặng.

Thời kỳ khởi phát. Trẻ quấy khóc, bỏ bú, miệng chúm chím lại, trẻ đói nhưng không bú được nên càng khóc, lúc này nếu đè lưỡi ấn xuống thì thấy phản ứng lại đó là dấu hiệu cứng hàm (trismus), thời kỳ khởi phát này nhanh chóng chuyển sang thời kỳ toàn phát (từ vài giờ đến một ngày).

Thời kỳ toàn phát. Bệnh thể hiện rõ ràng, cứng hàm càng rõ, xuất hiện hai triệu chứng chính là cơn co giật và co cứng. Tùy theo mức độ bệnh nặng hay nhẹ mà có cơn co giật hay co cứng mau hay thưa, ngắn hay dài.

Cơn co giật: Xảy ra một cách tự phát hay kích thích (ánh sáng, khám, bế cho ăn) lúc đó nét mặt trẻ nhăn nhúm lại, miệng chúm chím, sùi bọt mép, hai tay nắm chặt. Cơn co giật có thể kéo dài vài phút. Cũng có khi tới 5-6 giờ liền, nếu cơn co giật mạnh liên tục, dễ kèm theo cơn ngừng thở kéo dài 2-3 phút, thậm chí 20-30 phút do cơ thanh quản bị co thắt. Lúc đó tiếng tim đập chậm lại, nếu kéo dài tiếng tim rời rạc, mạch khó bắt, chân tay lạnh, mỗi cơn ngừng thở là một lần có thể đe doạ tính mạng bệnh nhi hoặc dễ bị bội nhiễm và toan hóa máu.

Cơn co cứng cơ: Người trẻ uốn cong, đầu ngả ra sau, hai tay khép chặt, nó thường xuyên hiện sau cơn co giật đầu tiên và kéo dài suốt thời gian trị bệnh. Nếu co giật và co cứng kéo dài hàng phút, đứa trẻ có thể bị chết trong cơn co giật.

Toàn trạng: Nhiệt độ có thể bình thường nhưng thường sốt cao 38-39oC có khi 40-41°C là yếu tố phối hợp làm cơn co giật xảy ra. Tiêu hóa hay bị táo bón. Rốn thường rụng sớm (100%) và nhiễm khuẩn, có thể rốn ướt, có mủ hay thối.

Thời kỳ lui bệnh. Những trẻ qua được tuần thứ hai, thứ ba thường tiến triển tốt dần, cơn co giật, co cứng giảm dần và bệnh nhi bắt đầu mở mắt, khóc được. Trong thời gian này vẫn còn tăng trương lực, sau đó vài ngày bệnh nhi có thể bú mẹ được. Nhưng phải từ 1,5-2 tháng thì trương lực cơ mới trở lại bình thường.

Làm gì khi phát hiện trẻ bị uốn ván?

Khi nghi ngờ trẻ bị uốn ván rốn phải chuyển trẻ đi bệnh viện tuyến trên để điều trị. Để giảm bớt cơn co giật, trong khi di chuyển bệnh nhi y tế cơ sở có thể tiêm thuốc an thần và kháng sinh cho trẻ. Cố gắng di chuyển nhẹ nhàng, tránh tiếng động và ánh sáng làm giảm các cơn co giật.

Phòng tránh bằng cách nào?

Để phòng ngừa uốn ván rốn, cần làm những việc sau đây: Phổ biến cho mọi người hiểu rõ sự nguy hiểm của bệnh, nguyên nhân gây ra bệnh để mọi người hiểu và có ý thức phòng ngừa bệnh, theo đúng các quy tắc vệ sinh khi thai nghén và sinh đẻ. Mọi thai phụ phải định kỳ khám thai và đến đẻ tại trạm y tế, không được đẻ ở nhà. Nữ hộ sinh phải thực hiện nguyên tắc vô khuẩn khi đỡ đẻ. Mọi thai phụ cần tiêm vắc-xin uốn ván. Cụ thể:

Thực hiện vô khuẩn khi đỡ đẻ

Người nữ hộ sinh khi đỡ đẻ, chăm sóc rốn sơ sinh phải rửa tay sạch bằng xà phòng dưới vòi nước chảy hay nước sôi để nguội, sát khuẩn tay bằng cồn hay ngâm tay vào dung dịch sát trùng. Dụng cụ đỡ đẻ phải diệt khuẩn (kéo cắt rốn, chỉ buộc, băng rốn phải được hấp 120oC trong 20 phút hoặc nếu có điều kiện nên dùng gói đỡ đẻ sạch). Không băng rốn quá kín vì cuống rốn dễ giữ ẩm và lâu khô; Không nên cắt dây rốn quá dài chỉ nên cắt cách cuống rốn 2-3cm là đủ. Chú ý trong khi chăm sóc trẻ ở những tuần đầu khi trẻ chưa rụng rốn cần phải giữ gìn băng rốn sạch sẽ, băng bị ướt (do tắm, do thấm nước tiểu) phải thay ngay.

Tiêm phòng vắc-xin uốn ván khi mang thai

Đối với sản phụ cần tiêm đủ 2 mũi vắc-xin. Mũi thứ hai sau mũi thứ nhất một tháng và phải trước khi đẻ ít nhất là 15-30 ngày. Vì người mẹ có thể truyền cho thai nhi lượng miễn dịch chống uốn ván cho đến tháng đầu sau đẻ. Phương pháp này tỏ ra an toàn và có hiệu quả.

Nếu trẻ đẻ trong điều kiện không đảm bảo vô khuẩn, đẻ rơi và người mẹ chưa được tiêm phòng uốn ván trong lúc mang thai thì nên tiêm phòng uốn ván với SAT 1.500 đơn vị, tiêm bắp một lần sau đẻ.

BS. Nguyễn Kim Dung

Bệnh Uốn Ván Sơ Sinh Và Tầm Quan Trọng Của Công Tác Tiêm Chủng Phòng Uốn Ván Cho Phụ Nữ Có Thai

Tiêm vắc xin uốn ván là biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất để phòng bệnh uốn ván sơ sinh cho cả mẹ và con. Bản chất của vắc xin uốn ván là giải độc tố uốn ván tức là vắc xin được bào chế từ độc tố của vi khuẩn đã được làm mất tính độc, không phải làm từ vi khuẩn sống nên rất an toàn cho cả mẹ và con. Lịch tiêm uốn ván đầy đủ cho phụ nữ bao gồm 5 liều: liều 1 tiêm sớm khi có thai lần đầu hoặc cho nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại vùng nguy cơ cao (nếu chỉ tiêm 1 liều sẽ không tạo ra được kháng thể đủ để bảo vệ cho cả mẹ và con); liều 2 tiêm sau liều thứ nhất ít nhất 1 tháng; liều 3 sau liều 2 ít nhất 6 tháng hoặc lần có thai sau; liều 4 sau liều 3 ít nhất 1 năm hoặc lần có thai sau; liều 5 sau liều 4 ít nhất 1 năm hoặc lần có thai sau. Sau khi tiêm vắc xin uốn ván cho phụ nữ có thai, kháng thể hình thành trong cơ thể mẹ sẽ truyền cho thai nhi để bảo vệ cho trẻ không bị mắc uốn ván sơ sinh, đồng thời kháng thể này cũng bảo vệ cho chính bà mẹ trong quá trình sinh đẻ không bị mắc uốn ván.

Tiêm vắc xin uốn ván là biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất để phòng bệnh uốn ván sơ sinh cho cả mẹ và con

Tại Việt nam, bệnh UVSS giai đoạn trước năm 1991 là rất nặng nề, hàng năm có tới vài trăm đến hàng nghìn trường hợp trẻ em chết do UVSS được báo cáo trên phạm vi cả nước. Trước tình hình nghiêm trọng đó, năm 1993, Bộ Y tế Việt Nam đã chính thức xây dựng kế hoạch và triển khai các hoạt động loại trừ uốn ván sơ sinh trên phạm vi cả nước. Mục tiêu của loại trừ UVSS là nhằm làm giảm số mắc UVSS dưới 1/1000 trẻ đẻ sống theo đơn vị huyện trong 1 năm. Các hoạt động loại trừ uốn ván sơ sinh được triển khai đồng bộ, rộng khắp trên cả nước với 3 chiến lược chính là: 1). Tiêm vắc xin uốn ván cho tất cả phụ nữ có thai và tiêm vắc xin uốn ván cho nữ trong độ tuổi 15 – 35 tại những huyện nguy cơ cao; 2). Tăng cường thực hành đỡ đẻ sạch tại các cơ sở y tế đặc biệt là tuyến xã; 3). Tăng cường giám sát chết sơ sinh và uốn ván sơ sinh một cách có hệ thống.

Việc tiêm vắc xin uốn ván miễn phí cho phụ nữ có thai được thực hiện thường xuyên liên tục tại tất cả các điểm tiêm chủng trên phạm vi cả nước cùng với các vắc xin khác trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Hàng năm ở nước ta khoảng 1,6 triệu phụ nữ có thai được tiêm chủng an toàn và tỷ lệ tiêm vắc xin uốn ván cho phụ nữ có thai và phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nước ta luôn đạt trên 80% trong suốt nhiều năm liên tục. Qua nhiều năm bền bỉ với những nỗ lực rất lớn của toàn hệ thống y tế, đặc biệt là của chương trình tiêm chủng mở rộng, số ca mắc uốn ván sơ sinh và mắc uốn ván của bà mẹ đã giảm vài chục lần so với giai đoạn trước năm 1991. Và dấu mốc quan trọng nhất đã đến khi vào năm 2005 Việt Nam đã chính thức được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận đạt mục tiêu loại trừ bệnh uốn ván sơ sinh trên quy mô toàn quốc. Thành quả này là một trong những thành quả quan trọng nhất cùng với việc thanh toán bệnh bại liệt mà chương trình tiêm chủng mở rộng đã đạt được trong thời gian qua và cũng là niềm tự hào của ngành y tế nước ta.

Trong thời gian tới để duy trì được thành quả loại trừ uốn ván sơ sinh mà chúng ta đã nỗ lực đạt được thì các chiến lược loại trừ uốn ván sơ sinh phải tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh, đặc biệt là chiến lược tiêm vắc xin uốn ván cho phụ nữ có thai trên toàn quốc và tiêm cho phụ nữ tuổi sinh đẻ ở những vùng nguy cơ cao. Việc duy trì thành quả loại trừ uốn ván sơ sinh sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em ở nước ta, đặc biệt trong việc đạt được mục tiêu thiên niên kỷ về giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em và cải thiện sức khỏe cho các bà mẹ.

Ngày đăng: 31-12-2014

PGS.TS. Trần Như Dương – Phó Viện trưởng Viện VSDT Trung ương

Nguồn: Cục Y tế dự phòng

Bệnh Uốn Ván Ở Người

Bệnh uốn ván ở người không loại trừ bất kỳ người nào dù là trẻ em, người lớn, người già yếu, nam hay nữ. Khi mắc bệnh uốn ván tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90% . Đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%.

Bệnh uốn ván ở người không loại trừ bất kỳ người nào dù là trẻ em, người lớn, người già yếu, nam hay nữ. Khi mắc bệnh uốn ván tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90% . Đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%.

Bệnh uốn ván ở người là bệnh gì?

Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng cấp tính. Người mắc bệnh có tỷ lệ tử vong cao do Clostridium tetani ( ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván ). Trực khuẩn uốn ván phát triển tại vết thương hở trong điều kiện yếm khí, sau đó phát triển ngoại độc tố vào máu và tấn công các bản vận động thần kinh cơ. Bệnh nhân sẽ bị co cứng cơ và xuất hiện những cơn có giật.

Thời kỳ ủ bệnh uốn ván ở người là từ 4 – 21 ngày. Bệnh nhân tử vong do suy hô hấp, rối loại thần kinh thực vật và tim ngừng đập.

Bệnh uốn ván ở người không loại trừ bất kỳ người nào dù là trẻ em, người lớn, người già yếu, nam hay nữ. Khi mắc bệnh uốn ván tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90% . Đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%.

Khả năng gây bệnh uốn ván

Bệnh uốn ván ở người luôn được coi là một trong những bệnh nguy hiểm nhất với tỷ lệ tử vong cao, nhất là ở trẻ sơ sinh. Một thống kê dịch quý II năm 1993, tỷ lệ trẻ sơ sinh mắc uốn ván là 36,4%, các lứa tuổi khác là 15,1%.

Khi trực khuẩn uốn ván xâm nhập vào cơ thể từ vết thương hở hoặc từ vết cắt rốn của trẻ sơ sinh, chúng sinh ra độc tố mạnh và xâm nhập vào những phần khác trên cơ thể. Khi trực khuẩn xâm nhập vào đường tiêu hóa, chúng sẽ bị phá hủy bởi Acide dạ dày. Do đó không gây bệnh đường tiêu hóa.

Vi khuẩn nhất là bào tử uốn ván có khắp nơi trong đất cát , bụi, phân trâu bò ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ …, xâm nhập vào các vết thương, vết xây xước phát triển thành ổ nhiễm trùng gây bệnh uốn ván ở người.

Uốn ván căn bệnh nguy hiểm

Với tiến bộ của y học, tỉ lệ tử vong do uốn ván giảm đáng kể. Tuy nhiên, việc điều trị thường phức tạp do bệnh nhân đối mặt với nhiều biến chứng như suy hô hấp, ngưng thở hay ngưng tim đột ngột, rối loạn thần kinh thực vật, xuất huyết cơ, nhiễm trùng huyết hay nhiễm trùng đường tiểu. Do những khó khăn này mà mỗi bệnh nhân phải nằm viện từ 1 – 2 tháng, tổng chi phí lên đến cả trăm triệu đồng…

Điều trị bệnh nhân uốn ván tại Bệnh viện Đa khoa Phú Yên. – Ảnh: T.THỦY

NGUY CƠ TỬ VONG CAO NẾU KHÔNG TIÊM NGỪA

Bác sĩ Nguyễn Thành Lãm (khoa Nhiễm, Bệnh viện Đa khoa Phú Yên) cho biết, trước đây tỉ lệ tử vong của bệnh nhân uốn ván rất cao. Hai năm nay, được trang bị máy thở, các bác sĩ điều trị áp dụng phương pháp mở khí quản sớm, cho thở máy cấp cứu nên đã cứu sống nhiều bệnh nhân.

Đây là một thành công lớn trong điều trị bệnh uốn ván ở Bệnh viện Đa khoa Phú Yên. Tuy nhiên, việc điều trị một ca bệnh uốn ván rất phức tạp do bệnh nhân đối mặt với nhiều biến chứng.

Cũng theo bác sĩ Lãm, uốn ván là bệnh do độc tố uốn ván tác động vào hệ thần kinh cơ, sau khi người bệnh có vết thương hở tiếp xúc với nha bào uốn ván có trong đất, môi trường xung quanh; người không được chủng ngừa uốn ván, vết thương không được xử lý tốt hoặc khi xỉa răng, ngoáy lỗ tai không vô trùng.

Bệnh uốn ván không lây truyền từ người sang người. Người có thể bị uốn ván khi vết thương hoặc vết cắt bị nhiễm bẩn. Nha bào uốn ván thường phát triển trong vết thương sâu do đinh, dao, mảnh vụn của gỗ bẩn và do động vật cắn.

Phụ nữ có thể có nguy cơ nhiễm trùng cao nếu dùng dụng cụ bị nhiễm bẩn khi sinh hoặc nạo thai. Trẻ sơ sinh có thể bị nhiễm bẩn nếu dụng cụ dùng để cắt rốn, chăm sóc rốn hoặc tay của người đỡ đẻ không sạch. Trẻ nhỏ cũng có thể bị bệnh khi dùng các dụng cụ bẩn cắt bao qui đầu, rạch da và những thứ không sạch đắp vào các vết thương.

Thời gian ủ bệnh thường trong khoảng 3 – 10 ngày nhưng cũng có thể tới 3 tuần. Thời gian ủ bệnh càng ngắn thì nguy cơ tử vong càng cao. Ở trẻ em và người lớn, cứng cơ hàm là dấu hiệu đầu tiên của bệnh uốn ván.

Tiếp theo là cứng cổ, khó nuốt, co cứng cơ bụng, cơ co thắt, vã mồ hôi và sốt. Bệnh nhân co thắt và co giật các cơ, có thể gãy xương sống hoặc các xương khác. Rối loạn nhịp tim, hôn mê, viêm phổi và các nhiễm trùng khác có thể xảy ra. Khả năng tử vong ở trẻ nhỏ và người già rất cao.

PHÒNG BỆNH CHỈ VỚI 20.000 ĐỒNG

Bà Nguyễn Thị Nhung, điều dưỡng trưởng khoa Nhiễm cho biết: Phần lớn bệnh nhân uốn ván ở độ tuổi lao động, là những người lao động chân tay (thợ hồ, nông dân…), do họ thường làm việc trong điều kiện dễ bị tổn thương da, không biết bảo vệ mình và cũng không tiêm phòng uốn ván.

Uốn ván là một bệnh nguy hiểm, bệnh nhân cần phải điều trị cấp cứu tại bệnh viện. Theo các bác sĩ, bệnh có thể phòng ngừa bằng vắc xin giải độc tố uốn ván VAT. Nhờ chương trình tiêm chủng mở rộng mà bệnh uốn ván ở trẻ sơ sinh hầu như đã được thanh toán dứt điểm; phụ nữ ở độ tuổi sinh nở cũng vậy.

Hiện nay, uốn ván lại gặp nhiều ở nam giới, độ tuổi từ 15-45, nhất là những người lao động nghèo. Một ca uốn ván nặng, thời gian điều trị trung bình 5 tuần, chi phí từ 30 – 50 triệu đồng. Trong khi đó, phòng ngừa uốn ván rất đơn giản, chỉ cần tiêm vắc xin là có thể bảo vệ được trong nhiều năm liền, với giá dao động từ 15.000 – 25.000 đồng. Do không biết điều này nên nhiều người không tiêm phòng, khi bị thương cũng không biết chăm sóc vết thương đúng cách để vi trùng xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh.

Nếu chưa từng tiêm VAT bao giờ thì sẽ tiêm “ba mũi cơ bản”: mũi thứ hai tiêm cách mũi thứ nhất một tháng, mũi thứ ba cách mũi thứ hai từ 6-12 tháng, phòng ngừa được 5 năm. Đối với trẻ em, tiêm ba mũi vắc xin tổng hợp (DTC) ngừa bạch hầu, UV, ho gà vào các tháng tuổi thứ hai, thứ ba, thứ tư. Tiêm nhắc lại một mũi DTC lúc 16 tháng tuổi.

Đến 6 tuổi, tiêm nhắc lại một mũi VAT (các bậc cha mẹ thường quên đưa con đi tiêm mũi này khiến hiệu quả miễn dịch không cao). Sau đó, nếu tiêm nhắc thêm một lần nữa vào năm 18 tuổi thì sẽ phòng bệnh được 20 năm.

(Blogsudo Tổng Hợp)