Bệnh Tay Chân Miệng Cục Y Tế Dự Phòng / Top 17 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Zqnx.edu.vn

Cục Y Tế Dự Phòng Khuyến Cáo Phòng Chống Bệnh Tay Chân Miệng

Ngày 27/4, Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cho biết: Hiện nay đã xuất hiện một số trường hợp trẻ mắc bệnh tay chân miệng. Trước thực trạng đó, Cục Y tế dự phòng khuyến cáo cả người lớn và trẻ em phải rửa tay thường xuyên bằng xà phòng dưới vòi nước chảy nhiều lần trong ngày, đặc biệt trước khi chế biến thức ăn, trước khi ăn hay cho trẻ ăn, trước khi bế ẵm trẻ, sau khi đi vệ sinh, sau khi thay tã và làm vệ sinh cho trẻ.

Thức ăn cho trẻ cần đảm bảo đủ chất dinh dưỡng; ăn chín, uống chín; vật dụng ăn uống phải đảm bảo được rửa sạch sẽ trước khi sử dụng (tốt nhất là ngâm tráng nước sôi); sử dụng nước sạch trong sinh hoạt hằng ngày; không mớm thức ăn cho trẻ; không cho trẻ ăn bốc, mút tay, ngậm mút đồ chơi; không cho trẻ dùng chung khăn ăn, khăn tay, vật dụng ăn uống như cốc, bát, đĩa, thìa, đồ chơi chưa được khử trùng.

Hộ gia đình, nhà trẻ mẫu giáo, các hộ trông trẻ tại nhà cần thường xuyên lau sạch các bề mặt, vật dụng tiếp xúc hằng ngày như đồ chơi, dụng cụ học tập, tay nắm cửa, tay vịn cầu thang, mặt bàn, ghế, sàn nhà bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa thông thường. Người dân sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh; phân, chất thải của trẻ phải được thu gom, xử lý và đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh.

Đặc biệt, trẻ em phải được thường xuyên theo dõi sức khỏe để kịp thời phát hiện, tổ chức cách ly, điều trị các trường hợp mắc bệnh, tránh lây bệnh cho các trẻ khác. Các nhà trẻ, mẫu giáo, nhóm trẻ tập trung và hộ gia đình có trẻ dưới 6 tuổi cần chủ động theo dõi sức khỏe của trẻ để kịp thời phát hiện và đưa ngay đến các cơ sở y tế để được điều trị kịp thời. Trẻ bị bệnh phải được cách ly ít nhất là 10 ngày kể từ khi khởi bệnh, không cho trẻ có biểu hiện bệnh đến lớp và chơi với các trẻ khác

Cục Y tế dự phòng cho biết: Bệnh tay chân miệng là một bệnh do vi rút gây nên, thường gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Dấu hiệu đặc trưng của bệnh là sốt, đau họng, đau miệng; loét miệng với vết loét đỏ hay phỏng nước ở niêm mạc miệng, lợi, lưỡi; phát ban dạng phỏng nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông. Bệnh có thể gây biến chứng nguy hiểm như viêm não- màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp và dẫn tới tử vong nếu không được phát hiện sớm và xử lý kịp thời.

Bên cạnh đó, để phòng chống bệnh sởi lây lan trong cộng đồng, Bộ Y tế khuyến cáo: Trong dịp nghỉ lễ 30/4 và ngày 1/5/2014, người có các triệu chứng viêm đường hô hấp hoặc nghi ngờ mắc sởi như sốt, ho, khó thở, phát ban không nên đi du lịch hoặc đến nơi tập trung đông người. Trong quá trình đi du lịch, nếu có các triệu chứng nghi ngờ mắc sởi như sốt, ho, phát ban, đến ngay các cơ sở y tế gần nhất để được tư vấn, khám, điều trị kịp thời và hạn chế tiếp xúc với người khác để tránh lây lan.

Các gia đình chủ động đưa trẻ từ 9 tháng đến 2 tuổi chưa tiêm hoặc tiêm chưa đủ 2 mũi vắc xin sởi hoặc trẻ từ 9 tháng đến 10 tuổi theo ở những nơi có nguy cơ cao đến trạm y tế xã, phường để tiêm vắc xin phòng sởi theo khuyến cáo của Bộ Y tế. Không nên đưa trẻ chưa được tiêm vắc xin sởi đến những nơi tập trung đông người như khu vui chơi, giải trí để tránh bị nhiễm sởi; tăng cường dinh dưỡng cho trẻ, thường xuyên vệ sinh răng miệng, mũi, họng, mắt và thân thể cho trẻ; rửa tay với xà phòng khi chăm sóc trẻ; giữ nhà ở, nhà vệ sinh sạch sẽ./.

Cục Y Tế Dự Phòng Lên Tiếng Về Dịch Sởi

Ông Trần Đắc Phu

Theo nhận định của Bộ Y tế, dịch bệnh sởi năm nay là do tính chất chu kỳ xuất hiện sau 4-5 năm kể từ vụ dịch 2009-2010.

Phóng viên Báo Điện tử Chính phủ đã có cuộc trao đổi với chúng tôi Trần Đắc Phu, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), để tìm hiểu rõ hơn lý do Bộ Y tế chưa công bố dịch sởi khi số ca tử vong do bệnh này ở mức cao và có xu hướng gia tăng.

Tuy nhiên, các trường hợp mắc sởi cũng xuất hiện rải rác tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước (59/63 tỉnh, thành phố). Tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và TPHCM không xuất hiện ổ dịch sởi tập trung lớn, nhưng số mắc rải rác xảy ra trên diện rộng.

Hiện nay, bệnh nhân mắc sởi nặng chỉ tập trung ở Bệnh viện Nhi Trung ương, Khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Xanh Pôn của Hà Nội.

Có ý kiến cho rằng dịch sởi năm nay đang có những diễn biến bất thường; các ca bệnh sởi biến chứng viêm phổi, suy hô hấp nặng, nguy cơ tử vong cao. Với tư cách là cơ quan quản lý, ông nghĩ như thế nào về nhận định này?

PGS.TS Trần Đắc Phu: Bệnh sởi không nguy hiểm nhưng nếu để biến chứng thì lại rất nguy hiểm. Đặc biệt, có những bệnh nhi mắc cùng lúc một số bệnh khác nhau (như viêm phổi, viêm phế quản…) nên biến chứng do sởi càng nặng.

Tuy nhiên, để xem xét dịch có những diễn biến bất thường hay không, cần dựa vào tác nhân gây bệnh có những biến đổi về chủng gây bệnh như biến đổi về gene, thay đổi về độc lực cũng như xem xét về sự lan truyền và bùng phát, mức độ nặng, nhẹ của dịch bệnh xảy ra tại cộng đồng như thế nào.

Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy các chủng virus sởi ở Việt Nam chưa có những biến đổi gene một cách khác biệt so với sự lưu hành của các chủng virus trong khu vực và không có sự gia tăng về độc lực. Việc xuất hiện, gia tăng bệnh sởi và một số ổ dịch thời gian qua với quy mô nhỏ, tập trung hoặc rải rác.

Theo nhận định, dịch bệnh năm nay là do tính chất chu kỳ dịch xuất hiện sau 4-5 năm kể từ vụ dịch 2009-2010.

Nguyên nhân là do quá trình tích luỹ những trường hợp trẻ em không được tiêm chủng hoặc có được tiêm chủng nhưng không tạo được miễn dịch qua các năm và mắc bệnh. Điều này phù hợp với diễn biến dịch sởi trên thế giới và khu vực của các nước triển khai chương trình tiêm chủng mở rộng vaccine sởi cho trẻ em.

Song trước tình hình diễn biến bệnh năm nay, mới đây nhất, ngày 14/4, Hội đồng chuyên môn về điều trị của Bộ Y tế đã họp bàn tìm nguyên nhân, đánh giá, rút kinh nghiệm, nhất là việc tìm giải pháp để giảm số bệnh nhân nặng.

Bên cạnh đó, Bộ Y tế cũng đã nhiều lần trực tiếp kiểm tra tình hình nhằm tháo gỡ khó khăn cho BV Nhi Trung ương. Bộ trưởng Bộ Y tế cũng đã chỉ đạo BV bố trí khu vực điều trị riêng cho bệnh nhân sởi, tăng cường thực hiện nghiêm các biện pháp cách ly có thể được, bổ sung trang thiết bị, kinh phí cho BV…

Có ý kiến cho rằng, số trẻ tử vong do sởi trên thực tế cao hơn nhiều so với con số 25 trường hợp mà Bộ Y tế công bố, thưa ông?

PGS.TS Trần Đắc Phu: Các trường hợp tử vong do Bộ Y tế công bố được khẳng định là các trường hợp tử vong do biến chứng của sởi. Còn trên thực tế, có thể có những trường hợp bệnh nhân tử vong do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể bệnh nhân mắc trùng lắp nhiều bệnh khác nhau, trong đó có sởi.

Một vấn đề nữa là thời điểm hiện tại, có nhiều dịch bệnh song hành cùng thời tiết giao mùa là điều kiện cho các bệnh viêm đường hô hấp cấp, viêm phổi ở trẻ em phát triển mạnh, có nhiều triệu chứng tương tự như bệnh sởi và cũng có thể là biến chứng của bệnh sởi.

Hiện, Bộ Y tế đang tiếp tục tìm hiểu nghiên cứu về virus học, đặc điểm lâm sàng, dịch tễ học của bệnh để có những kết luận khẩn trương và chính xác nhất.

Bệnh nhân mắc sởi nặng chỉ tập trung đông ở BV Nhi Trung ương, Khoa Nhi BV Bạch Mai và BV Xanh Pôn. Ảnh VGP/Thúy HàẢnh: VGP/Thúy Hà

Có một số ý kiến cho rằng, Bộ đang giấu dịch sởi và khi phải công bố dịch sởi, Bộ và các địa phương sẽ phải chi nhiều kinh phí hơn cho việc này. Quan điểm của ông như thế nào?

PGS.TS Trần Đắc Phu: Hoàn toàn không có việc Bộ giấu dịch sởi. Vì ngay từ tháng 2/2014, khi các ca bệnh sởi được ghi nhận tại một số địa phương của các tỉnh miền núi phía Bắc, Bộ Y tế đã thông báo và chỉ đạo các địa phương này triển khai quyết liệt các biện pháp phòng chống dịch.

Trên thực tế, Bộ Y tế đã tổ chức Hội nghị trực tuyến tại 63 tỉnh, thành phố và gửi công điện, hướng dẫn các địa phương phòng bệnh, tổ chức tiêm và tiêm vét vaccine sởi. Chúng tôi cũng đã thông tin đến các bậc phụ huynh, mời họ đến tiêm chủng cho con, hướng dẫn các mẹ phòng bệnh. Do đó, hoàn toàn không có giấu giếm gì.

Tôi cũng xin nói thêm là hiện nay đã có quy định rất rõ ràng, những bệnh nào khi vào ổ dịch thì mới được bồi dưỡng, trong đó có những bệnh chưa công bố dịch nhưng khi đi giám sát theo quy định vẫn được bồi dưỡng, chứ không phải cứ công bố dịch mới được bồi dưỡng.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Cục Y Tế Dự Phòng: Người Dân Mọi Lứa Tuổi Nên Tiêm Phòng Bệnh Sởi

Bệnh sởi đang xuất hiện ở nhiều địa phương, đặc biệt là những địa phương có đặc thù biến động dân số cao như chúng tôi Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai… Cục Y tế dự phòng vừa kêu gọi người dân các lứa tuổi nếu chưa mắc sởi/chưa tiêm phòng thì sớm đi tiêm ngừa bệnh.

Người lớn cũng mắc sởi

PGS-TS Đỗ Duy Cường, Trưởng Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện Bạch Mai, trong những tuần đầu của tháng 1-2023, Khoa đã nhận nhiều bệnh nhân, chủ yếu là ở Hà Nội và là nữ dưới 30 tuổi mắc bệnh sởi. Số mắc sởi trong những tháng cuối 2023, đầu 2023 vào khoa khoảng 50 bệnh nhân, bằng ½ so với năm có dịch sởi lớn nhất gần đây là 2014.

“Nhiều bệnh nhân có các biến chứng viêm phổi, viêm phế quản, đặc biệt một bệnh nhân trong số này đang có thai và nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe cả mẹ và thai nhi”- bác sĩ Cường cho hay.

Theo thống kê của Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế, dịch sởi bắt đầu gia tăng trong các tháng cuối 2023 cho đến nay, so với cùng kỳ 2023, số mắc phát ban nghi sởi và số có xét nghiệm sởi dương tính đều cao hơn nhiều. Ngoài các tỉnh miền núi phía Bắc và Hà Nội, dịch sởi còn tăng cao cả ở Đồng Nai, chúng tôi Bà Rịa Vũng Tàu …

PGS.TS Đỗ Duy Cường thăm khám cho bệnh nhân mắc sởi đang điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai.

Tiêm chủng, nếu không muốn dịch lan rộng thêm

Phát biểu tại cuộc họp với báo chí về công tác phòng chống dịch bệnh đầu năm 2023, ông Đặng Quang Tấn, Phó cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế cho biết có tới trên 50% người mắc sởi trong thời gian qua chưa tiêm chủng, 40% không rõ tiền sử tiêm chủng hoặc tiêm chưa đủ mũi, số đã tiêm đủ hai mũi vắc xin phòng sởi chỉ khoảng 10%. Ông Tấn cho rằng vắc xin sởi đang sử dụng tại Việt Nam sản xuất trên dây chuyền và công nghệ Nhật Bản, là vắc xin rất lành tính và hiêu quả tốt, với 90% người tiêm đủ hai mũi được bảo vệ khỏi bệnh sởi.

Tuy nhiên tỷ lệ tiêm ngừa hiện đạt 95%, năm nào cũng có 5% chưa được tiêm và được xếp vào nhóm dễ cảm nhiễm với bệnh sởi. Cứ 4-5 năm số này tích lũy đủ lớn và dễ có nguy cơ bùng phát thành dịch nếu có mầm bệnh, trong khi đó sởi rất dễ lây và vẫn là bệnh lưu hành ở Việt Nam, nên nguy cơ càng dễ xảy ra.

Trong tình hình số mắc sởi gia tăng không chỉ ở Việt Nam mà còn nhiều quốc gia Châu Âu, Châu Á, Cục Y tế dự phòng khuyến cáo mọi người dân kể cả người lớn tuổi nếu chưa tiêm ngừa, chưa mắc sởi hãy chủ động đến cơ sở y tế để được tiêm ngừa.

Hiện nay, trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng trẻ em được tiêm chủng hai mũi miễn phí vào thời điểm 9 tháng tuổi (vắc xin sởi đơn) và 18 tháng tuổi (vắc xin sởi- rubella). Bên cạnh đó Bộ Y tế đang triển khai hoạt động tiêm chủng bổ sung vắc xin sởi-rubella miễn phí cho trẻ 1-5 tuổi ở những vùng nguy cơ cao. Với người lớn, có thể đến các cơ sở y tế tiêm mũi vắc xin phối hợp phòng sởi (sởi- rubella, sởi-quai bị-rubella) phòng hai bệnh hoặc 3 bệnh theo hình thức tiêm dịch vụ, đặc biệt với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ do vừa ngừa được bệnh sởi, vừa ngừa bệnh rubella cũng là bệnh nguy hiểm do dễ gây dị tật trẻ sơ sinh nếu mẹ mắc rubella trong thời gian mang thai. Dự án TCMR

Phát biểu tại cuộc họp với báo chí về công tác phòng chống dịch bệnh đầu năm 2023, ông Đặng Quang Tấn, Phó cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế cho biết có tới trên 50% người mắc sởi trong thời gian qua chưa tiêm chủng, 40% không rõ tiền sử tiêm chủng hoặc tiêm chưa đủ mũi, số đã tiêm đủ hai mũi vắc xin phòng sởi chỉ khoảng 10%. Ông Tấn cho rằng vắc xin sởi đang sử dụng tại Việt Nam sản xuất trên dây chuyền và công nghệ Nhật Bản, là vắc xin rất lành tính và hiêu quả tốt, với 90% người tiêm đủ hai mũi được bảo vệ khỏi bệnh sởi.

Tuy nhiên tỷ lệ tiêm ngừa hiện đạt 95%, năm nào cũng có 5% chưa được tiêm và được xếp vào nhóm dễ cảm nhiễm với bệnh sởi. Cứ 4-5 năm số này tích lũy đủ lớn và dễ có nguy cơ bùng phát thành dịch nếu có mầm bệnh, trong khi đó sởi rất dễ lây và vẫn là bệnh lưu hành ở Việt Nam, nên nguy cơ càng dễ xảy ra.

Bệnh Tay Chân Miệng Và Khuyến Cáo Phòng Ngừa, Điều Trị Của Bộ Y Tế

Bệnh tay chân miệng là một bệnh lý nguy hiểm do virus gây ra. Bệnh có thể dễ dàng lây nhiễm từ người sang người theo đường hô hấp, qua con đường nhiễm vào tay và cho lên dịch mũi, mắt, miệng. Bệnh tay chân miệng thường tấn công trẻ em, nhất là lứa tuổi dưới 6 còn đi nhà trẻ. Hiện nay chưa có thuốc đặc trị bệnh nên việc phòng bệnh là cực kỳ quan trọng, nhất là khi đã vào mùa dịch bệnh, dịch chồng dịch như hiện nay.

Bệnh tay chân miệng và những kiến thức cơ bản

Bệnh tay chân miệng rất hay gặp ở trẻ em, mặc dù bệnh không nguy hiểm tới tính mạng nhưng nếu không được chăm sóc tốt thì có thể để lại những biến chứng ảnh hưởng tới cuộc sống sau này của em bé.

Bệnh tay chân miệng là bệnh gì?

Bệnh tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người, dễ gây thành dịch do vi rút đường ruột gây ra. Hai nhóm tác nhân gây bệnh thường gặp là Coxsackie virus A16 và Enterovirus 71 (EV71). Biểu hiện chính là tổn thương da, niêm mạc dưới dạng phỏng nước ở các vị trí đặc biệt như niêm mạc miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, mông, gối. Bệnh có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não-màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp thời. Các trường hợp biến chứng nặng thường do EV71.

Bệnh tay chân miệng thường dễ mắc ở lứa tuổi nào và lây như thế nào

Bệnh lây chủ yếu theo đường tiêu hoá. Nguồn lây chính từ nước bọt, phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh.

Bệnh tay chân miệng gặp rải rác quanh năm ở hầu hết các địa phương. Tại các tỉnh phía Nam, bệnh có xu hướng tăng cao vào hai thời điểm từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 12 hàng năm.

Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, đặc biệt tập trung ở nhóm tuổi dưới 3 tuổi. Các yếu tố sinh hoạt tập thể như trẻ đi học tại nhà trẻ, mẫu giáo, đến các nơi trẻ chơi tập trung là các yếu tố nguy cơ lây truyền bệnh, đặc biệt là trong các đợt bùng phát.

Triệu chứng và các thể bệnh tay chân miệng

Bệnh tay chân miệng có triệu chứng chủ yếu trên tay, lòng bàn tay, lòng bàn chân, miệng của bệnh nhân. Các nốt đỏ có nước là một biểu hiện đặc trưng.

Triệu chứng lâm sàng của bệnh tay chân miệng

Giai đoạn ủ bệnh: 3 – 7 ngày.

Giai đoạn khởi phát: Từ 1 – 2 ngày với các triệu chứng như sốt nhẹ, mệt mỏi, đau họng, biếng ăn, tiêu chảy vài lần trong ngày.

Giai đoạn toàn phát: Có thể kéo dài 3-10 ngày với các triệu chứng điển hình của bệnh:

Giai đoạn lui bệnh: Thường từ 3-5 ngày sau, trẻ hồi phục hoàn toàn nếu không có biến chứng.

Các thể bệnh tay chân miệng

Thể tối cấp: Bệnh diễn tiến rất nhanh có các biến chứng nặng như suy tuần hoàn, suy hô hấp, hôn mê dẫn đến tử vong trong vòng 24-48 giờ.

Thể cấp tính với bốn giai đoạn điển hình như trên.

Thể không điển hình: Dấu hiệu phát ban không rõ ràng hoặc chỉ có loét miệng hoặc chỉ có triệu chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp mà không phát ban và loét miệng.

Các xét nghiệm chẩn đoán và theo dõi bệnh tay chân miệng

Khi nghi ngờ trẻ mắc Tay chân miệng, các bác sỹ có thể tiến hành thêm một số xét nghiệm chuyên sâu để chẩn đoán xác định bệnh Tay chân miệng, phân biệt với các bệnh khác như sởi.

Các xét nghiệm cơ bản bệnh tay chân miệng

Protein C phản ứng (CRP) (nếu có điều kiện) trong giới hạn bình thường (< 10 mg/L).

Đường huyết, điện giải đồ, X quang phổi đối với các trường hợp có biến chứng từ độ 2b.

Các xét nghiệm theo dõi phát hiện biến chứng bệnh tay chân miệng

Khí máu khi có suy hô hấp

Troponin I, siêu âm tim khi nhịp tim nhanh ≥ 150 lần/phút, nghi ngờ viêm cơ tim hoặc sốc.

Dịch não tủy: Chỉ định chọc dò tủy sống khi có biến chứng thần kinh hoặc không loại trừ viêm màng não mủ.

Xét nghiệm protein bình thường hoặc tăng, số lượng tế bào trong giới hạn bình thường hoặc tăng, có thể là bạch cầu đơn nhân hay bạch cầu đa nhân ưu thế.

Xét nghiệm phát hiện vi rút (nếu có điều kiện) từ độ 2b trở lên hoặc cần chẩn đoán phân biệt: Lấy bệnh phẩm hầu họng, phỏng nước, trực tràng, dịch não tuỷ để thực hiện xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập vi rút chẩn đoán xác định nguyên nhân.

Chụp cộng hưởng từ não: Chỉ thực hiện khi có điều kiện và khi cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý ngoại thần kinh.

Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tay chân miệng

Chẩn đoán bệnh Tay chân miệng cần dựa trên cả biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng. Các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tay chân miệng như sau.

Chẩn đoán ca lâm sàng bệnh tay chân miệng

Dựa vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học.

Yếu tố dịch tễ: Căn cứ vào tuổi, mùa, vùng lưu hành bệnh, số trẻ mắc bệnh trong cùng một thời gian.

Lâm sàng: Phỏng nước điển hình ở miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông, kèm sốt hoặc không.

Chẩn đoán xác định bệnh tay chân miệng

Xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập có vi rút gây bệnh.

Chẩn đoán phân biệt bệnh tay chân miệng

Các bệnh có biểu hiện loét miệng: Viêm loét miệng (áp-tơ): Vết loét sâu, có dịch tiết, hay tái phát.

Các bệnh có phát ban da:

Sốt phát ban: hồng ban xen kẽ ít dạng sẩn, thường có hạch sau tai.

Dị ứng: hồng ban đa dạng, không có phỏng nước.

Viêm da mủ: Đỏ, đau, có mủ.

Thuỷ đậu: Phỏng nước nhiều lứa tuổi, rải rác toàn thân.

Nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu: mảng xuất huyết hoại tử trung tâm.

Sốt xuất huyết Dengue: Chấm xuất huyết, bầm máu, xuất huyết niêm mạc.

Viêm não màng não: Viêm màng não do vi khuẩn; Viêm não-màng não do vi rút khác.

Nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn, viêm phổi.

Biến chứng của bệnh tay chân miệng

Bệnh tay chân miệng nếu được phát hiện sớm, chăm sóc tốt thì có thể hồi phục hoàn toàn không gây biến chứng gì. Tuy nhiên, nếu gia đình không điều trị tốt cho bé thì có thể gây biến chứng trên thần kinh, tim mạch, hô hấp cho trẻ.

Biến chứng thần kinh của bệnh tay chân miệng

Viêm não, viêm thân não, viêm não tủy, viêm màng não.

Rung giật cơ (myoclonic jerk, giật mình chới với): Từng cơn ngắn 1-2 giây, chủ yếu ở tay và chân, dễ xuất hiện khi bắt đầu giấc ngủ hay khi cho trẻ nằm ngửa.

Ngủ gà, bứt rứt, chới với, đi loạng choạng, run chi, mắt nhìn ngược.

Rung giật nhãn cầu.

Yếu, liệt chi (liệt mềm cấp).

Liệt dây thần kinh sọ não.

Co giật, hôn mê là dấu hiệu nặng, thường đi kèm với suy hô hấp, tuần hoàn.

Tăng trương lực cơ (biểu hiện duỗi cứng mất não, gồng cứng mất vỏ)

Biến chứng tim mạch, hô hấp của bệnh tay chân miệng

Viêm cơ tim, phù phổi cấp, tăng huyết áp, suy tim, trụy mạch.

Thời gian đổ đầy mao mạch chậm trên 2 giây.

Da nổi vân tím, vã mồ hôi, chi lạnh. Các biểu hiện rối loạn vận mạch có thể chỉ khu trú ở 1 vùng cơ thể (1 tay, 1 chân,…)

Giai đoạn đầu có huyết áp tăng (huyết áp tâm thu: trẻ dưới 1 tuổi ≥ 110 mmHg, trẻ từ 1 – 2 tuổi ≥ 115 mmHg, trẻ trên 2 tuổi ≥ 120 mmHg), giai đoạn sau mạch, huyết áp không đo được.

Khó thở: Thở nhanh, rút lõm ngực, khò khè, thở rít thanh quản, thở nông, thở bụng, thở không đều.

Phù phổi cấp: Sùi bọt hồng, khó thở, tím tái, phổi nhiều ran ẩm, nội khí quản có máu hay bọt hồng.

Phân độ lâm sàng bệnh tay chân miệng

Việc phân độ bệnh tay chân miệng giúp cho các sỹ điều trị hợp lý hơn cho trẻ bị tay chân miệng. Bệnh này có 4 độ khác nhau.

Chỉ loét miệng và/hoặc tổn thương da. Đây là mức độ bệnh nhẹ nhất và thường phục hồi rất nhanh nếu bắt đầu điều trị từ độ này.

Độ 2a:

Bệnh sử có giật mình dưới 2 lần/30 phút và không ghi nhận lúc khám

Sốt trên 2 ngày, hay sốt trên 39 độ C, nôn, lừ đừ, khó ngủ, quấy khóc vô cớ.

Độ 2b:

Có dấu hiệu thuộc nhóm 1 hoặc nhóm 2 :

Nhóm 1: Có một trong các biểu hiện sau:

Nhóm 2: Có một trong các biểu hiện sau:

Thất điều: run chi, run người, ngồi không vững, đi loạng choạng.

Rung giật nhãn cầu, lác mắt.

Yếu chi hoặc liệt chi.

Liệt thần kinh sọ: nuốt sặc, thay đổi giọng nói…

Độ 3 của bệnh Tay chân miệng

Một số trường hợp có thể mạch chậm (dấu hiệu rất nặng).

Vã mồ hôi, lạnh toàn thân hoặc khu trú.

Huyết áp tăng.

Thở nhanh, thở bất thường: Cơn ngưng thở, thở bụng, thở nông, rút lõm ngực, khò khè, thở rít thanh quản.

Rối loạn tri giác (Glasgow < 10 điểm).

Tăng trương lực cơ.

Độ 4 của bệnh tay chân miệng Điều trị bệnh tay chân miệng

Điều trị bệnh tay chân miệng cần tuân thủ nguyên tắc chung khi điều trị vừa giảm triệu chứng, vừa tăng cường thể trạng, miễn dịch cho trẻ, giúp cơ thể mau chóng phục hồi và chống lây nhiễm.

Nguyên tắc điều trị bệnh tay chân miệng

Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chỉ điều trị hỗ trợ (không dùng kháng sinh khi không có bội nhiễm).

Theo dõi sát, phát hiện sớm và điều trị biến chứng.

Bảo đảm dinh dưỡng đầy đủ, nâng cao thể trạng.

Điều trị bệnh tay chân miệng theo các độ bệnh

Điều trị bệnh tay chân miệng độ 1

Cần tái khám ngay khi có dấu hiệu từ độ 2a trở lên như:

Sốt cao ≥ 39 0C.

Thở nhanh, khó thở.

Giật mình, lừ đừ, run chi, quấy khóc, bứt rứt khó ngủ, nôn nhiều.

Đi loạng choạng.

Da nổi vân tím, vã mồ hôi, tay chân lạnh.

Co giật, hôn mê.

Điều trị bệnh tay chân miệng độ 2

Điều trị nội trú tại bệnh viện

Độ 2a:

Điều trị như độ 1. Trường hợp trẻ sốt cao không đáp ứng tốt với paracetamol có thể phối hợp với ibuprofen 10-15 mg/kg/lần lập lại mỗi 6-8 giờ nếu cần (dùng xen kẽ với các lần sử dụng paracetamol).

Thuốc: Phenobarbital 5 – 7 mg/kg/ngày, uống.

Theo dõi sát để phát hiện dấu hiệu chuyển độ.

Độ 2b:

Nằm đầu cao 30°.

Thở oxy qua mũi 3-6 lít/phút.

Hạ sốt tích cực nếu trẻ có sốt.

Thuốc điều trị bệnh tay chân miệng độ 2

Phenobarbital 10 – 20 mg/kg truyền tĩnh mạch. Lặp lại sau 8-12 giờ khi cần.

Immunoglobulin:

Nhóm 2: 1g/kg/ngày truền tĩnh mạch chậm trong 6-8 giờ. Sau 24 giờ nếu còn dấu hiệu độ 2b: Dùng liều thứ 2

Nhóm 1: Không chỉ định Immunoglobulin thường qui. Nếu triệu chứng không giảm sau 6 giờ điều trị bằng Phenobarbital thì cần chỉ định Immunoglobulin. Sau 24 giờ đánh giá lại để quyết định liều thứ 2 như nhóm 2.

Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, kiểu thở, tri giác, ran phổi, mạch mỗi 1- 3 giờ trong 6 giờ đầu, sau đó theo chu kỳ 4-5 giờ.

Đo độ bão hòa oxy SpO2 và theo dõi mạch liên tục (nếu có máy).

Điều trị bệnh tay chân miệng độ 3

Điều trị nội trú tại đơn vị hồi sức tích cực

Thở oxy qua mũi 3-6 lít/phút. Đặt nội khí quản giúp thở sớm khi thất bại với thở oxy.

Chống phù não: nằm đầu cao 30, hạn chế dịch (tổng dịch bằng 1/2-3/4 nhu cầu bình thường), thở máy tăng thông khí giữ PaCO2 từ 25-35 mmHg và duy trì PaO2 từ 90-100 mmHg.

Phenobarbital 10 – 20 mg/kg truyền tĩnh mạch. Lặp lại sau 8-12 giờ khi cần.

Immunoglobulin (Gammaglobulin): 1g/kg/ngày truyền tĩnh mạch chậm trong 6-8 giờ, dùng trong 2 ngày liên tục

Milrinone truyền tĩnh mạch 0,4 µg/kg/phút chỉ dùng khi HA cao, trong 24-72 giờ.

Điều chỉnh rối loạn nước, điện giải, toan kiềm, điều trị hạ đường huyết.

Hạ sốt tích cực.

Điều trị co giật nếu có: Midazolam 0,15 mg/kg/lần hoặc Diazepam 0,2-0,3 mg/kg truyền tĩnh mạch chậm, lập lại sau 10 phút nếu còn co giật (tối đa 3 lần).

Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, tri giác, ran phổi, SpO2, mỗi 1- 2 giờ. Nếu có điều kiện nên theo dõi huyết áp động mạch xâm lấn.

Điều trị bệnh tay chân miệng độ 4

Phù phổi cấp:

Ngừng ngay dịch truyền nếu đang truyền dịch.

Dùng Dobutamin liều 5-20 µg/kg/phút.

Furosemide 1-2 mg/kg/lần tiêm tĩnh mạch chỉ định khi quá tải dịch.

Điều chỉnh rối loạn kiềm toan, điện giải, hạ đường huyết và chống phù não:

Lọc máu liên tục hay ECMO (nếu có điều kiện).

Immunoglobulin: Chỉ định khi HA trung bình ≥ 50mmHg

Kháng sinh: Chỉ dùng kháng sinh khi có bội nhiễm hoặc chưa loại trừ các bệnh nhiễm khuẩn nặng khác

Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, tri giác, ran phổi, SpO2, nước tiểu mỗi 30 phút trong 6 giờ đầu, sau đó điều chỉnh theo đáp ứng lâm sàng; Áp lực tĩnh mạch trung tâm mỗi giờ, nếu có điều kiện nên theo dõi huyết áp động mạch xâm lấn.

Phòng bệnh tay chân miệng

Khi đã biết nguyên nhân gây bệnh và các con đường lây nhiễm bệnh thì các bậc phụ huynh cần lưu ý phòng bệnh hợp lý cho trẻ, nhất là trong mùa dịch.

Nguyên tắc phòng bệnh tay chân miệng

Hiện chưa có vắc xin phòng bệnh đặc hiệu.

Áp dụng các biện pháp phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa đối với bệnh lây qua đường tiêu hoá, đặc biệt chú ý tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây.

Phòng bệnh tay chân miệng tại các cơ sở y tế

Cách ly theo nhóm bệnh.

Nhân viên y tế: Mang khẩu trang, rửa, sát khuẩn tay trước và sau khi chăm sóc.

Khử khuẩn bề mặt, giường bệnh, buồng bệnh bằng Cloramin B 2%. Lưu ý khử khuẩn các ghế ngồi của bệnh nhân và thân nhân tại khu khám bệnh.

Xử lý chất thải, quần áo, khăn trải giường của bệnh nhân và dụng cụ chăm sóc sử dụng lại theo quy trình phòng bệnh lây qua đường tiêu hoá.

Phòng bệnh tay chân miệng ở cộng đồng

Vệ sinh cá nhân, rửa tay bằng xà phòng (đặc biệt sau khi thay quần áo, tã, sau khi tiếp xúc với phân, nước bọt).

Rửa sạch đồ chơi, vật dụng, sàn nhà.

Lau sàn nhà bằng dung dịch khử khuẩn Cloramin B 2% hoặc các dung dịch khử khuẩn khác.

Cách ly trẻ bệnh tại nhà. Không đến nhà trẻ, trường học, nơi các trẻ chơi tập trung trong 10-14 ngày đầu của bệnh.

Ban hành kèm theo Quyết định số 2554 /QĐ-BYT ngày 19 tháng 7 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế

Cập Nhật Chẩn Đoán Bệnh Tay Chân Miệng Theo Bộ Y Tế

Bệnh tay-chân-miệng là bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người, dễ gây thành dịch do vi rút đường ruột gây ra. Hai nhóm tác nhân gây bệnh thường gặp là Coxsackie virus A16 và Enterovirus 71 (EV71). Biểu hiện chính là tổn thương da, niêm mạc dưới dạng phỏng nước ở các vị trí đặc biệt như niêm mạc miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, mông, gối. Bệnh có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não-màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp thời. Các trường hợp biến chứng nặng thường do EV71.

a) Giai đoạn ủ bệnh: 3-7 ngày.

b) Giai đoạn khởi phát: Từ 1-2 ngày với các triệu chứng như sốt nhẹ, mệt mỏi, đau họng, biếng ăn, tiêu chảy vài lần trong ngày.

c) Giai đoạn toàn phát: Có thể kéo dài 3-10 ngày với các triệu chứng điển hình của bệnh:

– Loét miệng: vết loét đỏ hay phỏng nước đường kính 2-3 mm ở niêm mạc miệng, lợi, lưỡi, gây đau miệng, bỏ ăn, bỏ bú, tăng tiết nước bọt.

– Phát ban dạng phỏng nước: Ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông; tồn tại trong thời gian ngắn (dưới 7 ngày) sau đó có thể để lại vết thâm, rất hiếm khi loét hay bội nhiễm.

– Nếu trẻ sốt cao và nôn nhiều dễ có nguy cơ biến chứng.

– Biến chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp thường xuất hiện sớm từ ngày 2 đến ngày 5 của bệnh.

d) Giai đoạn lui bệnh: Thường từ 3-5 ngày sau, trẻ hồi phục hoàn toàn nếu không có biến chứng.

1.2. Các thể lâm sàng:

– Thể tối cấp: Bệnh diễn tiến rất nhanh có các biến chứng nặng như suy tuần hoàn, suy hô hấp, hôn mê dẫn đến tử vong trong vòng 24-48 giờ.

– Thể cấp tính với bốn giai đoạn điển hình như trên.

– Thể không điển hình: Dấu hiệu phát ban không rõ ràng hoặc chỉ có loét miệng hoặc chỉ có triệu chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp mà không phát ban và loét miệng.

2. Cận lâm sàng:

2.1. Các xét nghiệm cơ bản:

– Protein C phản ứng (CRP) (nếu có điều kiện) trong giới hạn bình thường (< 10 mg/L).

– Đường huyết, điện giải đồ, X quang phổi đối với các trường hợp có biến chứng từ độ 2b.

2.2. Các xét nghiệm theo dõi phát hiện biến chứng:

– Khí máu khi có suy hô hấp

– Troponin I, siêu âm tim khi nhịp tim nhanh ≥ 150 lần/phút, nghi ngờ viêm cơ tim hoặc sốc.

– Dịch não tủy:

+ Chỉ định chọc dò tủy sống khi có biến chứng thần kinh hoặc không loại trừ viêm màng não mủ.

+ Xét nghiệm protein bình thường hoặc tăng, số lượng tế bào trong giới hạn bình thường hoặc tăng, có thể là bạch cầu đơn nhân hay bạch cầu đa nhân ưu thế.

2.3. Xét nghiệm phát hiện vi rút (nếu có điều kiện) từ độ 2b trở lên hoặc cần chẩn đoán phân biệt: Lấy bệnh phẩm hầu họng, phỏng nước, trực tràng, dịch não tuỷ để thực hiện xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập vi rút chẩn đoán xác định nguyên nhân.

2.4. Chụp cộng hưởng từ não: Chỉ thực hiện khi có điều kiện và khi cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý ngoại thần kinh.

3. Chẩn đoán:

3.1. Chẩn đoán ca lâm sàng: Dựa vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học.

– Yếu tố dịch tễ: Căn cứ vào tuổi, mùa, vùng lưu hành bệnh, số trẻ mắc bệnh trong cùng một thời gian.

– Lâm sàng: Phỏng nước điển hình ở miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông, kèm sốt hoặc không.

3.2. Chẩn đoán xác định

– Xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập có vi rút gây bệnh.

4. Chẩn đoán phân biệt:

4.1. Các bệnh có biểu hiện loét miệng: Viêm loét miệng (áp-tơ): Vết loét sâu, có dịch tiết, hay tái phát.

4.2. Các bệnh có phát ban da:

– Sốt phát ban: hồng ban xen kẽ ít dạng sẩn, thường có hạch sau tai.

– Dị ứng: hồng ban đa dạng, không có phỏng nước.

– Viêm da mủ: Đỏ, đau, có mủ.

– Thuỷ đậu: Phỏng nước nhiều lứa tuổi, rải rác toàn thân.

– Nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu: mảng xuất huyết hoại tử trung tâm.

– Sốt xuất huyết Dengue: Chấm xuất huyết, bầm máu, xuất huyết niêm mạc.

4.3. Viêm não-màng não:

– Viêm màng não do vi khuẩn.

– Viêm não-màng não do vi rút khác.

4.4. Nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn, viêm phổi