Bệnh Cường Giáp Kèm Tăng Huyết Áp / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Zqnx.edu.vn

Bị Bệnh Gout Kèm Theo Tăng Huyết Áp Phải Làm Sao ?

Thứ Hai, 05-06-2017

Tư vấn của bác sĩ:

Chào bạn, khi gặp phải các vấn đề về sức khỏe người ta thường cảm thấy lo lắng, nhất là khi lại mắc phải hai ba bệnh cùng một lúc. Về việc người bệnh muốn hỏi về việc bị bệnh gout kèm theo tăng huyết áp phải làm sao được. Trả lời điều này trước tiên chúng tôi muốn nói về mối liên hệ mật thiết giữa bệnh gout và bệnh tăng huyết áp, hiểu rõ về bệnh sẽ biết cách xử lý tốt hơn.

→ Hiểu đúng về: Những quan điểm sai lầm trong điều trị bệnh gout

Theo nghiên cứu thu thập được, bệnh gout thường đi kèm với các chứng bệnh khác như bệnh tăng huyết áp, tiểu đường, béo phì, rối loạn lipid. Trong đó bệnh gout kèm theo bệnh tăng huyết áp là có nguy cơ cao xảy ra nhiều nhất. ⇔ Là do người ta nhận thấy hàm lượng acid uric vượt ngưỡng cho phép trong máy thường làm cho áp suất, lưu lượng máu thay đổi gây huyết áp cao. Nghiên cứu cũng cho thấy một chất sinh học làm tăng huyết áo là Noradrenalin Angiotensin II cũng có thể gây giảm bài tiết acid uric trong ống thận, từ đó nồng độ acid uric trong máu vượt ngưỡng cho phép.

Vậy khi bị bệnh gout kèm theo tăng huyết áp phải làm sao ?

Tốt nhất người bệnh gout nên kiểm soát huyết áp khi bị bệnh gout. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc dự phòng các nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đột quỵ tái phát do bệnh gout gây nên. Nếu có tiền sử mắc bệnh tăng huyết áp thì càng chú trọng kiểm soát huyết áp ổn định tránh ảnh hưởng tới sức khỏe. Nếu bạn đang có nguy cơ bị gout kèm theo tăng huyết áo thì nên thay đổi lối sống dinh dưỡng vận động một cách khoa học giúp điều trị phòng ngừa bệnh như sau:

Tránh thừa cân: Béo phì, thừa cân làm bệnh huyết áp và bệnh gout tiến triển nặng hơn. Thế nên khi mắc phải bệnh gout và bệnh tăng huyết áp cần kiểm soát cân nặng trước khi để 2 bệnh này tiến triển nặng.

Chế độ ăn tốt cho bệnh gout và huyết áp: Cần thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh, giàu vitamin tự nhiên trong rau, củ quả. Giảm ăn các thực phẩm giàu chất béo và cholessterol hay các loại thịt đỏ nhằm ngừ bệnh tim mạch, huyết áp. Thêm nữa chế độ ăn cho người bị gout cần chú trọng tới việc kiêng kỵ thịt đỏ, nội tạng động vật, các loại hải sản….

Uống nhiều nước vừa giúp đào thải acid uric trong máu ra ngoài cơ thể vừa giúp cân bằng huyết áp.

Tập luyện thể dục thể thao, vận động hợp lý ngày từ 30-60 phút/ ngày sẽ giúp ngăn ngừa mắc bệnh huyết áp, lưu thông máu tốt giúp lọc thải acid uric trong máu tốt. hãy tìm hiểu một số môn thể dục nhẹ nhàng như bơi lội, cầu lông, chạy bộ đi bộ….

Ngừng sử dụng thức uống có cồn: Cồn sẽ làm ảnh hưởng tới cả bệnh gout lẫn bệnh tăng huyết áp, khiến tiến triển của bệnh nặng lên trông thấy. Thế nên kiểm soát bệnh cần phải loại bỏ thức uống này ra khỏi thực đơn càng sớm càng tốt.

Dùng thuốc điều trị: trường hợp huyết áp tăng cao hay bệnh gout mãn tính thì người bệnh cần phải dùng tới một số loại thuốc theo đơn của bác sĩ để kiểm soát tình trạng này càng sớm càng tốt.

Bệnh Tăng Huyết Áp Thứ Phát

Tăng huyết áp thứ phát khác với loại huyết áp thông thường (tăng huyết áp nguyên phát). Bệnh cần phải được điều trị kịp thời để tránh những biến chứng nghiêm trọng có thể xảy ra.

1. Tăng huyết áp thứ phát là gì

2. Triệu chứng của bệnh tăng huyết áp thứ phát

3. Nguyên nhân gây ra bệnh tăng huyết áp thứ phát

4. Biến chứng của bệnh tăng huyết áp thứ phát

5. Điều trị bệnh tăng huyết áp thứ phát

6. Bác sĩ điều trị

Tăng huyết áp thứ phát (tên tiếng Anh là Secondary Hypertension) là huyết áp tăng gây ra bởi một tình trạng sức khoẻ khác. Tăng huyết áp thứ phát có thể là do các tình trạng ảnh hưởng đến thận, động mạch, tim hoặc hệ thống nội tiết. Tăng huyết áp thứ phát cũng có thể xảy ra trong thai kỳ.

Điều trị tăng huyết áp thứ phát thường có thể kiểm soát cả tình trạng bệnh nền và huyết áp tăng, làm giảm nguy cơ biến chứng nghiêm trọng – bao gồm bệnh tim, suy thận và đột quỵ.

Giống như tăng huyết áp nguyên phát, tăng huyết áp thứ phát thường không có dấu hiệu hoặc triệu chứng cụ thể, ngay cả khi huyết áp của bạn đã lên đến mức nguy hiểm cao.

Nếu bạn đã được chẩn đoán bị tăng huyết áp, có bất kỳ dấu hiệu nào trong những dấu hiệu này có thể là tăng huyết áp thứ phát:

Huyết áp cao không đáp ứng với thuốc huyết áp .

Huyết áp rất cao – huyết áp tâm thu trên 180 mm thủy ngân (mm Hg) hoặc huyết áp tâm trương trên 120 mm Hg.

Thuốc trị bệnh huyết áp hoặc thuốc trước đó kiểm soát huyết áp của bạn không còn đáp ứng nữa.

Tăng huyết áp đột ngột trước tuổi 30 hoặc sau 55 tuổi.

Không có tiền sử gia đình về huyết áp cao.

Không béo phì.

Nếu bạn có một tình trạng có thể gây tăng huyết áp thứ phát, bạn có thể cần kiểm tra huyết áp của bạn thường xuyên hơn. Hỏi bác sĩ bao lâu bạn kiểm tra huyết áp một lần.

Bác sĩ tham vấn thông tin:

✍ Các bác sĩ Tim Mạch Hello Doctor

유 Chat Bác sĩ trên Facebook

Một số tình trạng có thể gây tăng huyết áp thứ phát. Bao gồm:

Các biến chứng bệnh tiểu đường (bệnh thận tiểu đường): Bệnh tiểu đường có thể làm hỏng hệ thống lọc thận của bạn, có thể dẫn đến huyết áp cao.

Bệnh thận đa nang: Trong bệnh lí di truyền này, u nang trong thận ngăn ngừa thận hoạt động bình thường và có thể làm tăng huyết áp.

Bệnh cầu thận: Thận lọc chất thải và natri bằng các bộ lọc có kích thước cực nhỏ gọi là cầu thận mà đôi khi có thể trở nên phù. Nếu cầu thận phù không thể hoạt động bình thường, bạn có thể bị huyết áp cao.

Tăng huyết áp mạch máu thận: Loại tăng huyết áp này là do hẹp một hoặc cả hai động mạch dẫn đến thận của bạn.

Nó thường được gây ra bởi cùng một loại mảng chất béo có thể làm hư hại động mạch vành của bạn ( bệnh xơ vữa động mạch) hoặc một tình trạng riêng biệt, trong đó các mô cơ và mô xơ vách động mạch thận dày lên và cứng thành các vòng (loạn sản sợi cơ). Tăng huyết áp mạch máu thận có thể gây tổn thương thận không hồi phục.

Hội chứng Cushing: Trong tình trạng này, thuốc có thể gây tăng huyết áp thứ phát, hoặc tăng huyết áp có thể là do khối u tuyến yên hoặc các yếu tố khác làm cho tuyến thượng thận tạo ra quá nhiều hormone cortisol.

Hội chứng tăng aldosterone: Trong tình trạng này, khối u ở tuyến thượng thận, làm tăng các tế bào bình thường trong tuyến thượng thận hoặc các yếu tố khác khiến tuyến thượng thận tiết ra một lượng hormone aldosterone quá mức. Điều này làm thận giữ lại muối và nước và mất quá nhiều kali, làm tăng huyết áp.

U tủy thượng thận: Loại ung thư hiếm gặp này, thường xuất hiện ở tuyến thượng thận, làm tăng sản xuất hormone adrenaline và noradrenaline, có thể dẫn đến huyết áp tăng dài hạn hoặc tăng huyết áp ngắn hạn.

Các vấn đề về tuyến giáp: Khi tuyến giáp không sản sinh ra đủ hormone tuyến giáp ( suy giáp) hoặc sản sinh ra quá nhiều hoóc môn tuyến giáp ( cường giáp), có thể gây ra huyết áp cao.

Cường tuyến cận giáp: Các tuyến cận giáp quy định lượng canxi và phốt pho trong cơ thể. Nếu các tuyến sản xuất quá nhiều hormone tuyến cận giáp, lượng canxi trong máu của bạn tăng lên – điều này làm tăng huyết áp.

Hẹp động mạch chủ: Với dị tật bẩm sinh này, động mạch chính của cơ thể (động mạch chủ) bị thu hẹp. Điều này buộc tim phải bơm máu khó hơn để đưa máu qua động mạch chủ và đến các nơi của cơ thể. Điều này làm tăng huyết áp .

Chứng ngưng thở lúc ngủ: Trong tình trạng này, thường bị biểu hiện bởi thở nhiều lần dừng lại và bắt đầu trong suốt giấc ngủ, khiến bạn không có đủ oxy.

Không có đủ oxy có thể làm hỏng thành trong mạch máu, làm cho mạch máu của bạn không hiệu quả trong việc điều chỉnh huyết áp. Ngoài ra, ngưng thở khi ngủ gây ra một phần của hệ thần kinh phải hoạt động quá mức và giải phóng một số chất hóa học làm tăng huyết áp.

Béo phì: Khi bạn tăng cân, lượng máu lưu thông qua cơ thể tăng lên. Điều này làm gia tăng áp lực lên thành động mạch, tăng huyết áp.

Mang thai: Mang thai có thể làm cho huyết áp tăng trở nên tồi tệ hơn, hoặc có thể gây ra tiền sản giật.

Thuốc và chất bổ sung: Các loại thuốc khác nhau như thuốc giảm đau, thuốc tránh thai, thuốc chống trầm cảm và thuốc được sử dụng sau khi cấy ghép nội tạng có thể gây ra hoặc làm nặng thêm huyết áp ở một số người.

Yếu tố nguy cơ lớn nhất đối với tăng huyết áp thứ phát là có tình trạng bệnh lý có thể gây ra chứng tăng huyết áp, chẳng hạn như các vấn đề về thận, động mạch, tim hoặc nội tiết.

Tổn thương động mạch: Điều này có thể dẫn đến việc cứng và dày lên các động mạch (xơ vữa động mạch), có thể dẫn đến nhồi máu cơ tim, đột quỵ hoặc các biến chứng khác.

Phình mạch: Tăng huyết áp có thể làm cho mạch máu của bạn yếu đi và phồng lên, tạo thành một phình mạch. Nếu một phình động mạch vỡ, nó có thể đe dọa tính mạng.

Suy tim: Để bơm máu chống lại áp lực cao hơn trong mạch máu, cơ tim sẽ dày lên. Cuối cùng, cơ dày có thể khó bơm đủ máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể, dẫn đến suy tim.

Các mạch máu bị suy yếu và thu hẹp trong thận: Điều này có thể ngăn ngừa các cơ quan hoạt động bình thường.

Mạch máu dày, hẹp hoặc rách trong mắt: Điều này có thể dẫn đến mất thị lực.

Hội chứng chuyển hóa: Hội chứng này là một nhóm rối loạn chuyển hóa của cơ thể – bao gồm vòng eo tăng lên, tăng triclycerides, HDL thấp (cholesterol “tốt”), huyết áp cao và mức insulin cao.

Các vấn đề với trí nhớ hoặc sự thông hiểu: Huyết áp cao không kiểm soát cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng suy nghĩ, ghi nhớ và học hỏi của bạn. Có vấn đề với trí nhớ hoặc sự thông hiểu phổ biến hơn ở những người có huyết áp cao.

Biến chứng bệnh tăng huyết áp thứ phát

Để chẩn đoán tăng huyết áp thứ phát, bác sĩ sẽ trước tiên thực hiện việc đo huyết áp.Bác sĩ có thể không chẩn đoán bạn bị tăng huyết áp thứ phát dựa trên một lần huyết áp cao hơn bình thường – có thể mất từ ba đến sáu lần đo huyết áp cao tại các buổi tái khám để chẩn đoán tăng huyết áp thứ phát.

Bác sĩ có thể kiểm tra các dấu hiệu khác để xác định nguyên nhân gây ra huyết áp cao, bao gồm:

Xét nghiệm máu: Bác sĩ có thể kiểm tra kali, natri, creatinine, lượng đường trong máu, cholesterol toàn phần và triglyceride và các chất khác trong máu để giúp chẩn đoán.

Xét nghiệm nước tiểu: Bác sĩ có thể kiểm tra nước tiểu có thể cho các dấu hiệu cho thấy huyết áp tăng là do một tình trạng y khoa khác.

Điện tâm đồ (ECG): Nếu bác sĩ cho rằng cao huyết áp thứ phát có thể là do vấn đề về tim, họ có thể đo điện tâm đồ.

Thông thường, tình trạng bệnh nền đòi hỏi phải điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật. Một khi bệnh nền được điều trị hiệu quả, tăng huyết áp thứ phát có thể giảm hoặc thậm chí trở lại bình thường.

Thông thường, thay đổi lối sống – chẳng hạn như ăn chế độ ăn lành mạnh, tăng hoạt động thể chất và duy trì cân nặng khỏe mạnh – có thể giúp duy trì huyết áp thấp. Bạn cũng cần phải tiếp tục dùng thuốc hạ huyết áp, và bất kỳ tình trạng sức khoẻ nào mà bạn có có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn thuốc của bác sĩ.

Điều trị bệnh tăng huyết áp thứ phát

Các thuốc có thể chọn bao gồm:

Điều trị đôi khi có thể phức tạp. Bạn có thể cần nhiều hơn một loại thuốc kết hợp với thay đổi lối sống để kiểm soát huyết áp cao của bạn. Và bác sĩ sẽ muốn bạn táo khám nhiều hơn cho đến khi nào huyết áp của bạn ổn định, có thể là thường xuyên như mỗi tháng một lần.

Thuốc lợi tiểu: Thuốc hoạt động trên thận của bạn để giúp cơ thể bạn loại bỏ natri và nước, làm giảm thể tích máu.

Thuốc làm giảm khối lượng công việc trong tim và mở rộng các mạch máu, khiến tim bạn đập chậm hơn và ít lực hơn.

Thuốc làm dãn mạch máu.

Mặc dù việc điều trị bệnh tăng huyết áp thứ phát có thể là khó khăn, nhưng việc thay đổi lối sống lành mạnh sẽ giúp bạn phần nào hạn chế đi tác hại của bệnh tăng huyết áp thứ phát. Bao gồm:

Bệnh tăng huyết áp thứ phát nên được điều trị sớm để tránh những hậu quả nguy hiểm, vì vậy khi thấy bản thân có các dấu hiệu của bệnh, bạn nên đi khám để đươc chuẩn đoán và điều trị sớm nhất. Bạn có thể liên hệ đặt khám với các bác sĩ của Hello Doctor chúng tôi để nhận được sự hỗ trợ và giúp đỡ qua số điện thoại 1900 1246.

Ăn thực phẩm lành mạnh: Thử các chế độ ăn kiêng để ngăn ngừa tăng huyết áp, đặc biệt với trái cây, rau quả, ngũ cốc và thực phẩm bơ sữa ít béo. Có nhiều kali, được tìm thấy trong trái cây và rau quả như khoai tây, rau bina, chuối và mơ, để giúp ngăn ngừa và kiểm soát huyết áp cao. Ăn ít chất béo bão hòa.

Giảm muối trong chế độ ăn uống của bạn: Nồng độ natri thấp hơn 1,500 mg / ngày phù hợp với người từ 51 tuổi trở lên, mọi lứa tuổi ở người da đen hoặc những người mắc bệnh cao huyết áp, tiểu đường hoặc bệnh thận mạn tính. Người khỏe mạnh có thể nhắm mục tiêu cho 2.300 mg một ngày hoặc ít hơn.

Mặc dù bạn có thể giảm lượng muối ăn bằng cách bỏ muối, bạn cũng nên chú ý đến lượng muối trong thực phẩm chế biến mà bạn ăn, như trong các đồ ăn đóng hộp.

Duy trì cân nặng khỏe mạnh: Nếu bạn thừa cân, giảm cân thậm chí có thể hạ thấp huyết áp của bạn.

Tăng hoạt động thể chất: Hoạt động thể chất thường xuyên có thể giúp giảm huyết áp và giữ cân nặng của bạn được kiểm soát. Phấn đấu ít nhất 30 phút hoạt động thể chất mỗi ngày.

Hạn chế uống rượu: Ngay cả khi bạn khỏe mạnh, rượu có thể làm tăng huyết áp. Nếu bạn chọn uống rượu, hãy uống với mức độ vừa phải – mỗi ngày một ly cho phụ nữ, và hai ly một ngày cho nam giới.

Không hút thuốc: Thuốc lá gây tổn thương thành mạch máu và đẩy nhanh quá trình làm cứng các động mạch. Nếu bạn hút thuốc, hãy hỏi bác sĩ để giúp bạn bỏ thuốc.

Giảm căng thẳng: Giảm căng thẳng càng nhiều càng tốt. Thực hành các bài tập như thư giãn cơ và thở sâu. Việc ngủ nhiều cũng có thể giúp ích.

Tăng Huyết Áp Cấp Cứu

Tăng huyết áp cấp cứu là tăng huyết áp nghiêm trọng với các dấu hiệu tổn thương cơ quan đích (chủ yếu là não, hệ tim mạch và thận). Chẩn đoán bằng đo huyết áp, điện tâm đồ, xét nghiệm phân tích nước tiểu, định lượng BUN và creatinine huyết thanh. Điều trị là hạ huyết áp ngay lập tức với các thuốc hạ áp đường tĩnh mạch (ví dụ, clevidipine, fenoldopam, nitroglycerin, nitroprusside, nicardipine, labetalol, esmolol, hydralazine).

Triệu chứng

Khám thực thể tập trung vào các cơ quan đích: khám thần kinh, soi đáy mắt, khám tim mạch. Giảm tri giác (ví dụ lẫn lộn, không đáp ứng kích thích, hôn mê), có hoặc không kèm dấu hiệu thần kinh khu trú, gợi ý bệnh não; trạng thái tinh thần bình thường với dấu hiệu thần kinh khu trú gợi ý đột quỵ. Bệnh võng mạc giai đoạn nặng (xơ hóa, xuất tiết xuất huyết dạng bông, hẹp tiểu động mạch, phù gai thị) thường đi kèm với bệnh não do tăng huyết áp, các giai đoạn khác của bệnh võng mạc cũng thấy ở nhiều trường hợp tăng huyết áp cấp cứu khác. Tĩnh mạch cổ nổi, rale ẩm đáy phổi và tiếng tim thứ 3 gợi ý phù phổi. Mạch yếu bất đối xứng giữa 2 tay gợi ý tách thành động mạch chủ.

Các xét nghiệm thường quy bao gồm điện tâm đồ, phân tích nước tiểu, BUN và creatinine huyết thanh.

Bệnh nhân có các triệu chứng thần kinh cần chụp CT sọ để chẩn đoán xuất huyết não, phù não, hoặc nhồi máu não.

Bệnh nhân đau ngực hoặc khó thở cần chụp X quang ngực.

Các bất thường trên điện tâm đồ gợi ý tổn thương cơ quan đích bao gồm các dấu hiệu của dày thất trái hoặc thiếu máu cơ tim cấp.

Các bất thường về xét nghiệm nước tiểu gợi ý một tổn thương thận bao gồm: hồng cầu niệu, trụ hồng cầu và protein niệu.

Chẩn đoán khi có huyết áp rất cao và những tổn thương cơ quan đích.

Các thuốc đường tĩnh mạch tác dụng ngắn: nitrat, fenoldopam, nicardipine, hoặc labetalol

Các trường hợp tăng huyết áp cấp cứu được điều trị ở khoa hồi sức cấp cứu; hạ huyết áp dần dần bằng các thuốc đường tĩnh mạch tác dụng ngắn và có thể chuẩn liều được. Lựa chọn thuốc, tốc độ và mức độ hạ huyết áp phụ thuộc vào cơ quan đích bị tổn thương, nhưng nhìn chung giảm 20 đến 25% huyết áp trung bình trong 1 giờ là phù hợp, sự chuẩn liều sau đó phụ thuộc vào triệu chứng của bệnh nhân. Hạ huyết áp khẩn cấp đến huyết áp bình thường là không cần thiết Các thuốc được lựa chọn đầu tiên gồm nitroprusside, fenoldopam, nicardipine, và labetalol (xem Bảng: Các thuốc điều trị tăng huyết áp cấp cứu (không dùng đường uống)). Chỉ sử dụng Nitroglycerin đơn thuần ít có tác dụng.

Các thuốc đường uống không được chỉ định vì thời gian khởi phát tác dụng rất thay đổi và chuẩn liều khó khăn. Mặc dù nifedipine đường uống tác dụng ngắn có thể làm hạ huyết áp nhanh, nó có thể dẫn tới các biến chứng tim mạch và mạch máu não cấp tính (đôi khi gây tử vong), do đó không được khuyến cáo.

Clevidipine là thuốc chẹn kênh canxi thế hệ 3 tác dụng cực ngắn (trong vòng 1 đến 2 phút), làm giảm sức cản mạch ngoại biên mà không ảnh hưởng đến trương lực tĩnh mạch và áp suất đổ đầy thất. Clevidipine bị thủy phân nhanh chóng bởi các enzyme esterase trong máu, do đó chuyển hóa thuốc không bị ảnh hưởng bởi chức năng gan thận. Các thử nghiệm gần đây đã chứng minh hiệu quả và an toàn của thuốc trong kiểm soát huyết áp trước mổ và tăng huyết áp cấp cứu, cũng như tỉ lệ tử vong thấp hơn nitroprusside.

Liều khởi đầu của clevidipine là từ 1 đến 2 mg/h, tăng gấp đôi liều mỗi 90 giây cho đến khi đạt được huyết áp mục tiêu, lúc đó tăng liều ít hơn gấp đôi mỗi 5 đến 10 phút. Do đó clevidipine có thể được ưa chuộng hơn nitroprusside cho hầu hết các trường hợp tăng huyết áp cấp cứu, mặc dù nên cẩn trọng khi sử dụng Clevidipine cho bệnh nhân suy tim cấp với EF thấp vì thuốc có thể ảnh hưởng xấu đến lực co bóp của cơ tim. Nếu không có clevidipine, thì fenoldopam, nitroglycerin hoặc nicardipine là những lựa chọn hợp lý để thay thế.

Fenoldopam là một chất chủ vận dopamine-1 gây giãn mạch hệ thống, mạch thận và tăng thải muối. Khởi phát nhanh và thời gian bán hủy ngắn khiến Fenoldopam trở thành một thuốc thay thế hiệu quả cho nitroprusside, với lợi ích bổ sung là nó không vượt qua hàng rào máu-não. Liều khởi đầu là 0,1 mcg/kg/phút truyền tĩnh mạch, tăng liều mỗi 0,1 mcg/kg trong mỗi 15 phút đến tối đa là 1,6 mcg/kg/phút.

Nitroglycerin là thuốc giãn tĩnh mạch nhiều hơn tiểu động mạch. Nó có thể được sử dụng để kiểm soát tăng huyết áp trong và sau phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, nhồi máu cơ tim cấp, đau thắt ngực không ổn định và phù phổi cấp. Nitroglycerin đường tĩnh mạch được ưa dùng hơn nitroprusside cho bệnh nhân bệnh động mạch vành nghiêm trọng vì nitroglycerin làm tăng lưu lượng máu mạch vành, trong khi nitroprusside có xu hướng làm giảm lưu lượng máu mạch vành đến các vùng thiếu máu, có thể do cơ chế “cướp máu”. Liều khởi đầu là 10 đến 20 mcg/phút, tăng liều 10 mcg/phút mỗi 5 phút tới khi đạt hiệu quả hạ áp mong muốn.

Để kiểm soát huyết áp lâu dài, nitroglycerin phải được sử dụng với các thuốc khác. Tác dụng ngoại ý thường gặp nhất là nhức đầu (khoảng 2%); những tác dụng phụ khác bao gồm nhịp tim nhanh, buồn nôn, nôn, lo lắng, bồn chồn, giật cơ và đánh trống ngực.

Nicardipine, một thuốc chẹn kênh canxi nhóm dihydropyridine có ít tác dụng giảm co bóp cơ tim hơn so với nifedipine, tác động chủ yếu như một chất giãn mạch. Nicardipine thường được sử dụng cho cao huyết áp sau mổ và trong thai kỳ. Liều dùng là 5 mg/h truyền tĩnh mạch, tăng liều mỗi 15 phút đến tối đa 15 mg/h Thuốc có thể gây đỏ bừng mặt, nhức đầu và nhịp tim nhanh; giảm GFR ở bệnh nhân suy thận.

Labetalol là một thuốc chẹn beta giao cảm có tác dụng lên cả alpha-1, do đó gây giãn mạch mà không có nhịp tim nhanh phản xạ. Đường dùng là truyền tĩnh mạch liên tục hoặc tiêm tĩnh mạch nhanh thường xuyên, tiêm tĩnh mạch nhanh không gây tụt huyết áp. Labetalol được dùng cho phụ nữ có thai có những rối loạn nội sọ đòi hỏi kiểm soát huyết áp và sau nhồi máu cơ tim. Truyền tĩnh mạch từ 0,5 đến 2 mg/phút, tăng liều lên tối đa 4 đến 5 mg/phút. Tiêm tĩnh mạch nhanh khởi đầu với liều 20 mg, theo sau là 40mg mỗi 10ph, sau đó 80 mg (tối đa 3 liều), tổng liều tối đa là 300 mg. Tác dụng không mong muốn rất ít, nhưng do tác dụng chẹn beta giao cảm, không nên dùng labetalol cho những trường hợp tăng huyết áp cấp cứu ở bệnh nhân hen. Liều thấp có thể được sử dụng cho bệnh nhân suy thất trái nếu nitroglycerin được cho cùng một lúc.

Hạ 20 đến 25% huyết áp trung bình trong một giờ đầu bằng các thuốc hạ áp đường tĩnh mạch có tác dụng ngắn, có thể chuẩn liều như clevidipine, nitroglycerin, fenoldopam, nicardipine, hoặc labetalol.

Tăng Huyết Áp Thứ Phát

Tăng huyết áp thứ phát:

Định nghĩa

Tăng huyết áp thứ phát có thể được gây ra bởi vấn đề có ảnh hưởng đến thận, động mạch, tim hoặc hệ thống nội tiết. Tăng huyết áp thứ phát cũng có thể xảy ra trong thai kỳ.

Điều trị tăng huyết áp thứ phát thích hợp thường có thể kiểm soát cả hai điều kiện cơ bản và huyết áp cao, làm giảm nguy cơ biến chứng nghiêm trọng – bao gồm cả bệnh tim, suy thận và đột quỵ.

Các triệu chứng

Cũng giống như áp lực máu cao (tăng huyết áp), tăng huyết áp thứ phát thường không có dấu hiệu hay triệu chứng cụ thể, ngay cả khi huyết áp đã đạt đến mức độ cao nguy hiểm.

Một số người có thể bị đau đầu do tăng huyết áp thứ phát, nhưng rất khó để biết liệu tăng huyết áp hay cái gì khác gây ra đau đầu.

Nếu đã được chẩn đoán tăng huyết áp, dấu hiệu có thể có nghĩa là tình trạng tăng huyết áp thứ phát là:

Tăng huyết áp không đáp ứng với thuốc hạ huyết áp (chống tăng huyết áp).

Huyết áp rất cao – Huyết áp tâm thu trên 180 milimét thuỷ ngân (mm Hg) hoặc huyết áp tâm trương trên 110 mm Hg.

Loại thuốc huyết áp trước đây kiểm soát huyết áp hiện không hiệu quả.

Khởi phát đột ngột tăng huyết áp trước tuổi 30 hoặc sau tuổi 55.

Không có tiền sử gia đình huyết áp cao.

Nếu có tình trạng có thể gây tăng huyết áp thứ phát, có thể cần kiểm tra huyết áp thường xuyên hơn. Hãy gặp bác sĩ thường xuyên để kiểm tra huyết áp.

Nguyên nhân

Một số vấn đề có thể gây tăng huyết áp thứ phát. Chúng bao gồm:

Biến chứng của bệnh tiểu đường (bệnh thận do tiểu đường). Bệnh tiểu đường có thể làm hỏng bộ lọc của hệ thống thận, có thể dẫn tới huyết áp cao.

Bệnh thận đa nang. Trong điều kiện được thừa kế này, u nang trong thận ngăn ngừa thận hoạt động bình thường, và có thể làm tăng huyết áp.

Bệnh cầu thận. Thận lọc bằng cách sử dụng các bộ lọc có kích thước nhỏ gọi là cầu thận, đôi khi có thể trở nên viêm. Nếu cầu thận bị viêm không thể làm việc bình thường, có thể phát triển tăng huyết áp.

Tăng huyết áp do hẹp động mạch thận (Renovascular). Đây là một loại tăng huyết áp thứ phát do hẹp một hoặc cả hai động mạch dẫn đến thận. Tăng huyết áp do hẹp động mạch thận có thể gây ra tăng huyết áp nặng và tổn thương thận không thể đảo ngược. Nó thường gây ra bởi cùng loại mảng chất béo có thể gây hại động mạch vành (xơ vữa động mạch) hoặc tình trạng mà trong đó các cơ và các mô sợi của thành động mạch thận dày lên và cứng lại (loạn sản sợi cơ).

Hội chứng Cushing. Trong điều kiện này, thuốc corticosteroid, khối u tuyến yên hoặc các yếu tố khác làm cho tuyến thượng thận sản xuất quá nhiều các hoóc môn cortisol. Điều này làm tăng huyết áp.

Cường aldosterone. Trong điều kiện này, một khối u ở tuyến thượng thận, tăng sự phát triển của các tế bào bình thường trong tuyến thượng thận hoặc các yếu tố khác làm cho tuyến thượng thận phát hành quá mức của hormone aldosterone. Điều này làm cho thận giữ muối và nước và mất nhiều kali, làm tăng huyết áp.

U tuyến thượng thận. Khối u hiếm gặp thường được tìm thấy trong tuyến thượng thận, tăng sản xuất của các hormone adrenaline và noradrenaline, có thể dẫn đến tăng huyết áp.

Vấn đề tuyến giáp. Khi tuyến giáp không sản xuất đủ hormone tuyến giáp (hypothyroidism) hoặc sản xuất quá nhiều hormone tuyến giáp (cường giáp), huyết áp cao có thể xẩy ra.

Cường cận giáp. Tuyến cận giáp điều chỉnh nồng độ canxi và phốt pho trong cơ thể. Nếu tuyến tiết ra quá nhiều hormone cận giáp, lượng canxi trong máu tăng lên – gây nên tăng huyết áp.

Hẹp động mạch chủ. Với lỗi này khi sinh ra, động mạch chủ bị thu hẹp. Điều này buộc tim phải bơm mạnh hơn để máu qua động mạch chủ và đến phần còn lại của cơ thể. Điều này, làm tăng huyết áp – đặc biệt ở tay.

Ngưng thở khi ngủ. Trong điều kiện này, thường được xác định bởi ngáy nặng, thở nhiều lần dừng lại và bắt đầu trong khi ngủ, có nghĩa là không nhận đủ oxy. Không nhận đủ oxy có thể làm hỏng lớp lót của thành mạch máu, có thể làm cho các mạch máu kém hiệu quả trong việc điều chỉnh huyết áp. Ngoài ra, ngưng thở khi ngủ gây ra một phần của hệ thần kinh hoạt động quá mức và phát hành hóa chất nhất định làm tăng huyết áp.

Bệnh béo phì. Khi trọng lượng tăng, lượng máu lưu thông trong cơ thể tăng lên. Điều này đặt thêm áp lực lên thành động mạch, tăng huyết áp. Ngoài ra, trọng lượng thừa thường được kết hợp với sự gia tăng nhịp tim và giảm công suất của các mạch máu vận chuyển máu. Tất cả những yếu tố này có thể làm tăng huyết áp.

Mang thai. Mang thai có thể làm cho tăng huyết áp nặng thêm, hoặc có thể gây tăng huyết áp.

Thuốc và bổ sung. Thuốc theo toa khác nhau – từ thuốc giảm đau đến thuốc chống trầm cảm và thuốc được sử dụng sau khi cấy ghép nội tạng – có thể gây ra hoặc làm nặng thêm bệnh huyết áp cao ở một số người. Thuốc tránh thai, thuốc thông mũi, bổ sung một số thảo dược, bao gồm cả nhân sâm, có thể có tác dụng tương tự. Nhiều loại thuốc bất hợp pháp, chẳng hạn như cocaine và methamphetamine, cũng làm tăng huyết áp.

Yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ lớn nhất cho việc tăng huyết áp thứ phát là có một vấn đề y tế có thể gây huyết áp cao, chẳng hạn như thận, động mạch, tim hay các vấn đề về hệ thống nội tiết.

Các biến chứng

Tăng huyết áp thứ phát có thể làm trầm trọng thêm tình trạng y tế cơ bản, cũng là nguyên nhân gây ra huyết áp cao. Nếu không được điều trị, tăng huyết áp thứ phát cũng có thể kết hợp với vấn đề y tế khác, chẳng hạn như:

Thiệt hại cho động mạch. Điều này có thể dẫn đến xơ cứng và dày lên của các động mạch (xơ vữa động mạch), có thể dẫn đến một cơn đau tim, đột quỵ hoặc các biến chứng khác.

Phình mạch. Tăng huyết áp có thể làm cho các mạch máu suy yếu và lồi ra, tạo thành phình mạch. Nếu vỡ phình mạch, nó có thể đe dọa tính mạng.

Suy tim. Để bơm máu chống lại áp lực cao hơn trong mạch, cơ tim dày lên. Cuối cùng, cơ tim dày có thể khó bơm đủ máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể, có thể dẫn đến suy tim.

Bị suy và thu hẹp mạch máu trong thận. Điều này có thể ngăn các cơ quan này hoạt động bình thường.

Rách hoặc thu hẹp các mạch máu trong mắt. Điều này có thể dẫn đến mất thị lực.

Hội chứng chuyển hóa. Hội chứng này là một nhóm các rối loạn trao đổi chất của cơ thể – bao gồm cả chu vi vòng bụng tăng lên, chất béo trung tính cao, lipoprotein mật độ cao thấp (HDL), cholesterol cao, huyết áp cao, và mức insulin cao. Nếu có huyết áp cao, có nhiều khả năng có các thành phần khác của hội chứng chuyển hóa. Các thành phần khác có, nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường, bệnh tim hoặc đột quỵ lớn hơn.

Rắc rối với bộ nhớ hoặc hiểu biết. Không được kiểm soát huyết áp cao cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng suy nghĩ, ghi nhớ và học hỏi. Rắc rối với bộ nhớ hoặc hiểu các khái niệm phổ biến hơn ở những người có huyết áp cao.

Các xét nghiệm và chẩn đoán

Để chẩn đoán tăng huyết áp thứ phát, bác sĩ đầu tiên sẽ đọc huyết áp bằng cách sử dụng máy đo. Bác sĩ không thể chẩn đoán bị tăng huyết áp thứ phát dựa trên mức huyết áp cao hơn so với huyết áp bình thường – có thể mất 3 – 6 lần đo huyết áp tại các cuộc hẹn riêng biệt để chẩn đoán tăng huyết áp thứ phát.

Bác sĩ cũng sẽ muốn kiểm tra các dấu hiệu khác để xác định nguyên nhân gây ra huyết áp cao. Điều này có thể bao gồm:

Xét nghiệm máu. Bác sĩ có thể kiểm tra natri, kali, tổng cholesterol và chất béo trung tính, và các hóa chất khác trong máu để giúp chẩn đoán.

Phân tích nước tiểu. Bác sĩ có thể kiểm tra nước tiểu để có thể cho thấy huyết áp cao là do một vấn đề y tế.

Điện tâm đồ (ECG). Nếu bác sĩ cho rằng chứng tăng huyết áp có thể được gây ra bởi một vấn đề tim, có thể điện tim. Trong thử nghiệm không xâm lấn này, cảm biến (điện cực) được gắn vào ngực và tay chân có thể phát hiện các hoạt động điện của tim.

Phương pháp điều trị và thuốc

Thông thường, một tình trạng y tế cơ bản cần được chữa trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật. Khi một vấn đề cơ bản được điều trị hiệu quả, huyết áp có thể giảm hoặc thậm chí trở lại bình thường. Thông thường, tuy nhiên, thay đổi lối sống – chẳng hạn như ăn thức ăn lành mạnh, tăng hoạt động thể lực và duy trì một trọng lượng khỏe mạnh – có thể giúp giữ cho huyết áp thấp.

Có thể cần phải tiếp tục uống thuốc huyết áp, và bất kỳ vấn đề y tế có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn thuốc của bác sĩ. Lựa chọn loại thuốc có thể bao gồm:

Thuốc lợi tiểu thiazide. Thuốc lợi tiểu, loại thuốc tắc động trên thận để giúp cơ thể loại bỏ muối và nước, giảm thể tích máu. Thuốc lợi tiểu thiazide thường dùng đầu tiên – nhưng không phải là duy nhất – sự lựa chọn trong các loại thuốc tăng huyết áp. Những thuốc này thường ít tốn kém hơn so với thuốc khác. Nếu dùng thuốc lợi tiểu, huyết áp vẫn còn cao, nói chuyện với bác sĩ về việc thêm một hoặc thay thế một loại thuốc dùng với thuốc lợi tiểu. Tác dụng phụ có thể bao gồm tăng đi tiểu và nguy cơ rối loạn chức năng tình dục cao hơn.

Beta blockers. Những thuốc này làm giảm khối lượng công việc trên tim và mở các mạch máu, khiến trái tim đập chậm hơn và với lực ít hơn. Khi chỉ định một mình, thuốc chẹn beta không hiệu quả ở người da đen – nhưng chúng có hiệu quả khi kết hợp với thuốc lợi tiểu thiazide. Tác dụng phụ có thể bao gồm khó ngủ, mệt mỏi, nhịp tim chậm lại và lạnh bàn tay và bàn chân. Ngoài ra, thuốc chẹn beta thường không được chỉ định cho những người có bệnh hen suyễn, do có thể làm tăng co thắt phế quản.

Ức chế men chuyển (ACE). Những loại thuốc này giúp thư giãn các mạch máu bằng cách ngăn chặn sự hình thành một hóa chất tự nhiên làm thu hẹp mạch máu. Chất ức chế ACE có thể đặc biệt quan trọng trong điều trị huyết áp cao ở những người bị bệnh động mạch vành, suy tim hoặc suy thận. Giống như thuốc chẹn beta, thuốc ức chế ACE không hiệu quả ở người da đen khi chỉ định một mình, nhưng chúng có hiệu quả khi kết hợp với thuốc lợi tiểu thiazide. Tác dụng phụ có thể bao gồm chóng mặt và ho, và những loại thuốc này không nên dùng trong thai kỳ.

Chặn thụ thể Angiotensin II. Những loại thuốc này giúp thư giãn các mạch máu bằng cách ngăn chặn các hành động – không phải sự hình thành – của hóa chất thu hẹp mạch máu. Giống như các chất ức chế ACE, thuốc chẹn thụ thể angiotensin II thường có ích cho những người bị bệnh động mạch vành, suy tim và suy thận. Những thuốc này có tác dụng phụ ít hơn so với chất ức chế ACE, nhưng cũng không được sử dụng trong thai kỳ.

Chẹn kênh canxi. Những loại thuốc giúp thư giãn các cơ của các mạch máu. Một số làm chậm nhịp tim. Chẹn kênh canxi có thể làm việc tốt hơn cho người da đen so với các chất ức chế ACE hoặc chẹn beta một mình. Tác dụng phụ có thể bao gồm giữ nước, chóng mặt và táo bón. Và cảnh cáo cho những người yêu thích bưởi. Nước bưởi tương tác với một số thuốc chẹn kênh canxi, tăng nồng độ thuốc trong máu và có nguy cơ cao hơn về tác dụng phụ. Hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ nếu thuốc bị ảnh hưởng bởi nước bưởi.

Điều trị đôi khi có thể phức tạp. Có thể cần nhiều hơn một loại thuốc kết hợp với thay đổi lối sống để kiểm soát huyết áp cao. Và bác sĩ sẽ muốn kiểm tra thường xuyên hơn cho đến khi huyết áp ổn định, có thể một lần một tháng.

Phong cách sống và biện pháp khắc phục

Mặc dù điều trị tăng huyết áp thứ phát có thể khó khăn, làm thay đổi lối sống nếu áp lực chính trong máu cao có thể giúp đỡ. Chúng bao gồm:

Ăn thức ăn lành mạnh. Hãy thử phương pháp tiếp cận chế độ ăn uống để ngừng tăng huyết áp, trong đó nhấn mạnh trái cây, rau, ngũ cốc và các loại thực phẩm chất béo sữa thấp. Nhận được rất nhiều kali, được tìm thấy trong trái cây và rau quả như khoai tây, rau bina, chuối và mơ, để giúp ngăn ngừa và kiểm soát huyết áp cao. Ăn ít chất béo bão hòa.

Giảm muối trong chế độ ăn uống. Mặc dù 2.400 milligrams (mg) natri một ngày là giới hạn cho người lớn khỏe mạnh khác, hạn chế lượng natri đến 1.500 mg / ngày có thể sẽ có hiệu ứng mạnh mẽ hơn về huyết áp. Trong khi có thể làm giảm lượng muối ăn bằng cách giảm muối cụ thể, cũng nên chú ý đến lượng muối có trong các loại thực phẩm chế biến, như súp đóng hộp hoặc đông lạnh.

Duy trì trọng lượng khỏe mạnh. Nếu đang thừa cân, giảm thậm chí 10 pound (4,5 kg) có thể hạ thấp huyết áp.

Tăng hoạt động thể chất. Thường xuyên hoạt động thể chất có thể giúp giảm huyết áp và giữ cho cân nặng dưới sự kiểm soát. Phấn đấu ít nhất 30 phút hoạt động thể chất mỗi ngày.

Hạn chế uống rượu. Ngay cả khi đang khỏe mạnh, rượu có thể làm tăng huyết áp. Nếu uống rượu, vừa phải, đến một ly một ngày cho phụ nữ, và hai ly một ngày đối với nam giới.

Không hút thuốc. Thuốc lá làm tổn thương thành mạch máu và tăng tốc quá trình xơ cứng động mạch. Nếu hút thuốc, hãy hỏi bác sĩ để giúp bỏ thuốc lá.

Quản lý căng thẳng. Giảm căng thẳng càng nhiều càng tốt. Thực hành kỹ thuật đối phó lành mạnh, chẳng hạn như thư giãn cơ bắp và hít thở sâu. Nhận được rất nhiều của giấc ngủ có thể giúp đỡ.

Nội dung của Holevn Health chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin về: Tăng huyết áp thứ phát và không nhằm mục đích thay thế cho tư vấn, chẩn đoán hoặc điều trị y tế chuyên nghiệp. Vui lòng liên hệ với bác sĩ hoặc phòng khám, bệnh viện gần nhất để được tư vấn. Chúng tôi không chấp nhận trách nhiệm nếu bệnh nhân tự ý điều trị mà không tuân theo chỉ định của bác sĩ.

Tham khảo từ: https://www.dieutri.vn/timmach/tang-huyet-ap-thu-phat và chúng tôi tổng hợp.