Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Bệnh Ung Thư Máu (Bệnh Máu Trắng, Bệnh Bạch Cầu) được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bệnh máu trắng còn có tên thường gọi là ung thư máu, là tình trạng tủy và hệ bạch huyết bị rối loạn và tạo ra những bạch cầu ác tính. Chúng tăng sinh ngoài tầm kiểm soát và nhu cầu của cơ thể, lấn át các tế bào khác trong máu khiến cho máu không hoàn thành được các nhiệm vụ thường lệ.Bạch cầu là một trong ba loại tế bào của máu: hồng cầu, bạch cầu và tiểu bào. Hồng cầu chứa huyết cầu tố, mang dưỡng khí nuôi các cơ quan bộ phận. Bạch cầu có nhiệm vụ chống lại các chất lạ như vi sinh vật, hóa chất xâm nhập cơ thể và tạo ra kháng thể. Tiểu cầu giúp máu đóng cục, tránh xuất huyết ở vết thương.
Tế bào máu được tạo ra từ các tế bào gốc đa hiệu (pluripotent stem cells) ở tủy xương. Nơi đây, tế bào máu lớn lên cho đến khi trưởng thành thì chuyển sang dòng máu.
Phần dung dịch lỏng của máu là huyết tương, có các hóa chất hòa tan như đạm, tùy theo tốc độ tiến triển tình trạng nặng nhẹ của bệnh. Trường hợp cấp tính, xuất hiện nhiều tế bào máu chưa trưởng thành và vô dụng ở tủy xương và máu. Bệnh nhân bị thiếu máu vì hồng cầu thấp; dễ xuất huyết vì thiếu tiểu cầu; dễ mắc bệnh nhiễm vì khả năng tự vệ giảm. Do đó bệnh trở nên trầm trọng rất nhanh. Trong mãn tính, dấu hiệu xảy ra hormone, khoáng, vitamins, kháng thể.
Bệnh ung thư máu có cả ở súc vật như mèo, heo, trâu bò và dĩ nhiên ở người. Với người, bệnh xuất hiện ở bất cứ tuổi nào. Nam giới bị ung thư máu nhiều hơn nữ giới.
Ung thư máu có thể là mạn tính hoặc cấp tính, chậm hơn, bệnh nhân có đủ thời gian tạo ra tế bào máu trưởng thành nhưng có thể chuyển sang tình trạng cấp tính. Ung thư máu mãn tính nhiều hơn cấp tính và thường thấy ở người ngoài 67 tuổi. Trẻ em dưới 19 tuổi thường hay bị ung thư máu cấp tính lympho bào.
Ung thư cũng được chia loại tùy theo bạch cầu ác tính được tạo ra từ hệ bạch huyết haytừ tủy xương.
Nguyên nhân đích thực của bệnh chưa được biết rõ, nhưng một số rủi ro có thể gây ra bệnh. Đó là:
Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ, như trường hợp các nạn nhân bom nguyên tử ở Nhật vào cuối Thế Chiến II, vụ tai nạn nổ lò nguyên tử Chernobyl (Ukraine) năm 1986 hoặc ở bệnh nhân tiếp nhận xạ trị.
Bệnh nhân ung thư được điều trị bằng dược phẩm.
Làm việc trong môi trường có nhiều hóa chất như benzene, formaldehyde.
Một số bệnh do thay đổi gene như hội chứng Down, do virus hoặc vài bệnh về máu.
Triệu chứng của bệnh ung thư máu
Sốt, đau đầu, đau khớp do sự chèn ép trong tủy
Sốt, rét run, và triệu chứng giống như cảm cúm.
Mệt mỏi, yếu sức, da đổi thành màu trắng nhợt do thiếu hồng cầu
Hay bị nhiễm trùng do bạch cầu không thực hiện được chức năng chống nhiễm khuẩn
Chảy máu chân/nướu răng do giảm khả năng làm đông máu
Dễ bầm tím và dễ chảy máu.
Biếng ăn, sút cân.
Ra mồ hôi về ban đêm ở bệnh nhân là nữ
Sưng nề bụng hoặc cảm giác khó chịu ở bụng.
Đau khớp và xương.
Nếu không được điều trị, ung thư máu cấp tính đưa tới tử vong rất mau. Ung thư mạn tính có thể không có dấu hiệu, khó chẩn đoán, dễ tử vong vì bội nhiễm các loại vi khuẩn. Đôi khi bệnh được khám phá tình cờ trong khi khám sức khỏe tổng quát.
Để xác định bệnh, bác sĩ sẽ thực hiện các bước như sau:
Khám tổng quát cơ thể, tìm coi gan, lách, hạch có sưng;
Thử nghiệm đếm số tế bào máu và số lượng huyết cầu tố, các chức năng của gan, thận;
Xét nghiệm tế bào tủy xương và nước tủy;
Chụp hình X-quang cơ thể.
Điều trịBệnh cần được các bác sĩ chuyên môn nhiều ngành như huyết học, u bướu hóa xạ trị chăm sóc, điều trị. Mục đích điều trị là đưa bệnh tới tình trạng không còn triệu chứng, bệnh nhân bình phục với tế bào máu và tủy xương lành mạnh như trước. Phương thức điều trị tùy thuộc vào một số yếu tố như loại ung thư, giai đoạn bệnh, tuổi tác và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
Các phương pháp trị liệu gồm có:a. Hóa trị (Chemotherapy)
Hóa trị dùng các dược phẩm khác nhau bằng cách uống, chích vào tĩnh mạch hoặc vào tủy xương để tiêu diệt tế bào ung thư. Hóa trị rất công hiệu và được áp dụng cho đa số bệnh nhân. Có nhiều loại thuốc và người bệnh có thể chỉ uống một thứ hoặc phối hợp hai ba thuốc. Tuy nhiên, hóa trị cũng ảnh hưởng tới các tế bào bình thường và gây ra một số tác dụng phụ như rụng tóc, lở môi miệng, nôn mửa, tiêu chẩy, ăn mất ngon, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn sinh sản.
b. Xạ trị (Radiation therapy)
Với một máy phát xạ lớn, các tia phóng xạ được đưa vào các bộ phận có nhiều bạch cầu ung thư tụ tập, như lá lách, não bộ để tiêu diệt chúng. Tác dụng phụ gồm có: mệt mỏi, viêm đau nơi da nhận tia xạ.
c. Sinh trị liệu (Biological Therapy)
Còn gọi là miễn dịch trị liệu, sinh trị liệu sử dụng kháng thể để hủy hoại tế bào ung thư. Kháng thể là những chất đạm đặc biệt được cơ thể sản xuất khi có một vật lạ xâm nhập. Kháng thể này sẽ phát hiện và tiêu diệt các vật lạ đó khi chúng trở lại cơ thể.
Sinh trị liệu được thực hiện qua hai phương thức:
Gây miễn dịch để kích thích, huấn luyện hệ miễn dịch nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư
Cho bệnh nhân dùng các kháng thể đặc biệt được sản xuất trong phòng thí nghiệm để trị ung thư.
d. Ghép tế bào gốc (Stem Cell Transplant)
Ghép tủy là lấy tủy xương (thường là ở xương hông) có tế bào gốc của một người cho khỏe mạnh rồi đưa vào người bệnh với mục đích tái tạo tế bào máu và hệ thống miễn dịch. Tế bào gốc từ máu, cuống rốn thai nhi và nhau thai cũng được dùng để điều trị một vài loại ung thư máu.
Trong bệnh ung thư máu, tế bào gốc của tủy bị lỗi, sản xuất ra quá nhiều bạch cầu non yếu nhưng ác tính, gây trở ngại cho sự tăng sinh của tế bào bình thường ở máu.
Ghép tủy không hoàn toàn bảo đảm tránh được sự tái phát của ung thư nhưng có thể tăng khả năng trị bệnh và kéo dài đời sống người bệnh.
Phòng ngừaMột số bệnh ung thư có thể phòng ngừa bằng cách giảm thiểu tiếp xúc với rủi ro gây ung thư (như tránh khói thuốc lá), bằng nếp sống lành mạnh (không hút thuốc lá, uống nhiều rượu…), bằng dinh dưỡng đầy đủ hợp lý. Riêng với ung thư bạch cầu thì không có các rủi ro rõ rệt để phòng tránh.
Vì vậy người thường xuyên tiếp xúc với phóng xạ, hóa chất độc mà có những dấu hiệu bệnh bất thường đều nên đi kiểm tra sức khỏe theo định kỳ để sớm khám phá ra bệnh.
Ghép Tế Bào GốcVào giữa thế kỷ thứ 19, các khoa học gia người Ý đã gợi ý rằng tủy xương là nguồn gốc của tế báo máu nhờ có một hóa chất nào đó trong tủy. Tới đầu thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu chứng minh là một số tế bào ở tủy tạo ra tế bào máu. Họ gọi các tế bào này là “tế bào gốc”-stem cells. Kết quả nhiều nghiên cứu kế tiếp đã xác định dữ kiện này.
Tế bào gốc có trong tủy xương và máu. Tủy là lớp mô bào xốp nằm giữa các khoảng trống của xương. Ở trẻ sơ sinh, tất cả xương đều có tủy hoạt động mạnh. Tới tuổi tráng niên, tủy ở xương tay chân ngưng hoạt động trong khi đó tủy ở các xương sọ, hông, sườn, ức, cột sống vẫn tiếp tục sản xuất tế bào gốc.
Đặc tính của các tế bào gốc là có thể tự sinh ra tế bào khác y hệt như mình và tạo ra các tế bào trưởng thành như hồng cầu, bạch huyết cầu, tiểu cầu.
Ngoài tủy xương, tế bào gốc còn có trong dòng máu lưu thông hoặc máu từ cuống rốn thai nhi, nhau thai.. Ở tủy xương, cứ khoảng 100,000 tế bào máu thì có một tế bào gốc, trong khi đó số lượng tế bào gốc ở máu chỉ bằng 1/100 ở tủy.
Khái niệm ghép tủy để trị bệnh được khảo sát một cách khoa học vào cuối thế chiến II khi có nhiều nạn nhân bị hoại tủy do tiếp cận với phóng xạ, đặc biệt là sau vụ nổ bom nguyên tử ở Nhật.
Kỹ thuật ghép tủy xương được thực hiện thành công vào năm 1968 để điều trị các bệnh ung thư bạch cầu, thiếu máu vô sinh (aplastic anemia), u ác tính các hạch bạch huyết như bệnh Hodgkin, rối loạn miễn dịch và vài loại u như ung thư noãn sào, vú.
Trong ghép tủy, các tế bào bệnh hoạn của tủy bị tiêu diệt và tế bào gốc lành mạnh được truyền vào máu, tập trung vào ổ xương và bắt đầu sinh ra tế bào máu bình thường cũng như thiết lập một hệ miễn dịch mới.
Ghép tế bào gốc cứu sống nhiều người và chỉ thực hiện được khi có người cho thích hợp. Điều này không dễ dàng, vì để phương thức thành công, tế bào đôi bên phải hầu như 100% tương xứng. Chỉ dưới 30% bệnh nhân cần ghép tế bào mầm có thể tìm được tương xứng ở thân nhân.
Ngược lại khi người cho và người nhận không là sinh đôi đồng nhất thì cần phải tìm một người cho có loại tế bào gần tương tự như tế bào người nhận. Đây là việc làm khá khó khăn, tốn nhiều thời gian để có đối tác tương ứng.
Nhu cầu của bệnh nhân cần được ghép tế bào gốc rất cao mà kiếm được hai loại tế bào tương xứng giữa người cho và người nhận rất khó khăn. Vì thế nhiều tổ chức bất vụ lợi quốc tế đã đứng ra để ghi danh những vị tình nguyện hiến tủy hoặc tế bào mầm trong máu. Mỗi vị ghi danh là một niềm hy vọng cho những bệnh nhân khao khát chờ đợi được cứu sống. Hiện nay danh sách có khoảng hơn 10 triệu người trên thế giới sẵn sàng dâng hiến.
Hiến tủy được thực hiện tại cơ sở y tế với đầy đủ phương tiện, sau nhiều sửa soạn chu đáo cho nên rất an toàn. Mọi người từ 18 tới 60 tuổi, có sức khỏe tốt và hội đủ một số tiêu chuẩn y tế đều có thể ghi danh.
Lời kếtMỗi ngày có khoảng 6.000 người bị ung thư máu, u lympho bào đang mòn mỏi có được ân nhân tương xứng để nhận lãnh tế bào gốc trong tủy, trong máu để tránh khỏi lưỡi hái tử thần.
Bệnh Bạch Cầu (Ung Thư Máu)
Bệnh bạch cầu là ung thư của những tế bào máu. Mỗi năm, gần như 27,000 người lớn và hơn 2,000 trẻ con ở Hoa kỳ biết bị bệnh bạch cầu. Để hiểu bệnh bạch cầu, thật có ích khi ta biết về những tế bào máu bình thường và cái gì xảy ra với chúng khi bệnh bạch cầu phát triển.
Tế bào bạch cầu giúp đỡ cơ thể chiến đấu chống bệnh truyền nhiễm và những bệnh khác.
Tế bào hồng cầu mang oxy từ phổi đến các mô cơ thể và lấy khí carbonic từ mô quay trở lại phổi. Tế bào hồng cầu tạo màu đỏ của máu.
Tế bào tiểu cầu giúp đỡ tạo cục máu đông kiểm soát sự chảy máu.
Những tế bào máu được hình thành trong tủy xương, phần trung tâm mềm xốp của xương. Những tế bào máu mới (chưa trưởng thành) được gọi là các tế bào non. Vài tế bào non ở lại trong tủy để trưởng thành. Một số tới những phần khác của cơ thể để trường thành.
Bình thường, những tế bào máu được sản sinh theo trật tự, được kiêm soát theo cách khi thân thể cần chúng. Quá trình này giữ cho chúng ta mạnh khoẻ.
Khi bệnh bạch cầu phát triển, cơ thể sản sinh một số lớn những tế bào máu bất thường. trong đa số các kiểu bệnh ung thư máu, những tế bào dị thường là những bạch cầu. Tế bào bệnh bạch cầu (thông thường nhìn khác với tế bào máu bình thường và chúng không thực hiện đúng chức năng của chúng).
Qua việc nghiên cứu số lượng lớn người Irên khắp thế giới, nhũng nhà nghiên cứu đã tìm thấy những yếu tố nguy cơ nhất định làm tăng nguy cơ phát triển bệnh bạch cầu. Ví dụ, sự tiếp xúc với một lượng lón bức xạ nâng lượng cao sẽ làm tăng nguy cơ bị bệnh bạch cầu. Các chất phóng xạ này thường được sản sinh sau vụ nổ bom nguyên tử ở Nhật Bản trong thời gian chiến tranh Thế Giói thứ 2. Trong những nhà máy năng lượng hạt nhân, những quy tắc an toàn tuyệt đối nhàm bảo vệ công nhân và cộng đồng tránh tiếp xúc với khối lượng bức xạ có hại.
Nghiên cứu gợi ý rằng sự tiếp xúc trong những lĩnh vực điện từ là một yếu tố nguy cho bệnh bạch cầu ( những lĩnh vực điện từ là một kiểu cùa bức xạ năng lượng thấp đến từ dây diện và thiết bị điện). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu hơn cần thiết đổ chứng minh mối liên kết này.
Một sổ tình trạng di truyền có thế tăng thêm nguy cơ cho bệnh bạch cầu. Đó là hội chứng Down. Trẻ con sinh ra với hội chứng này có bệnh bạch cầu cao hơn so với trẻ khác.
Những công nhân tiếp xúc với hóa chất nhất định, trong cả một thời kỳ dài sẽ có nguy cơ cao bị ung thư máu. Benzen là một trong sổ hóa chất này. Đồng thời, vài thuốc sử dụng điều trị các loại ung thư khác có thể tăng thêm nguy cơ cho con người phát triển bệnh bạch cầu. Tuy nhiên, nguy cơ này rất nhỏ so với lợi ích mà mà hoá trị liệu mang lại.
Các nhà khoa học đã xác định được loại virut có khả năng làm tăng thêm nguy cơ mắc ung thư máu. Những nhà khoa học khắp thế giới tiếp tục nghiên cứu virut và nguy cơ có thể khác cho bệnh bạch cầu. Bằng việc nghiên cứu vì sau bị ung thư máu, từ đó các nhà khoa học hy vọng hiểu rõ hơn phương pháp để ngăn chặn và điều trị bệnh bạch cầu.
Có những loại ung thư máu nào?Trong bệnh bạch cầu kinh niên, một số tế bào non có mặt, nhưng nói chung, những tế bào này thì đã trường thành hơn và có thể thực hiện một số chức năng bình thường của chúng. Bệnh bạch cầu có thể xuất hiện trong cả hai kiểu bạch cầu chính: Những tế bào bạch huyết hoặc những tế bào tủy. Khi bệnh bạch cầu ảnh hường những tế bào bạch huyết, nó được gọi bệnh bạch cầu tế bào lympho. Khi những tế bào tủy bị ảnh hưởng, bệnh đưọc gọi tùy xương hoặc bệnh bạch cầu tạo tủy. Đây là những kiểu chung nhất của bệnh bạch cầu.
Bệnh bạch cầu dòng lympho cấp là thể thường gặp nhất của bệnh bạch cầu ờ trẻ em. Bệnh này cũng gây ra ở imười lớn, đặc biệt là ở tuổi 65 hoặc già hơn.
Bệnh bạch cầu dòng tuỷ hầu hết thường ảnh hưởng đến người lớn tuổi hơn 55. Nó thường xảy ra ở người trẻ hơn, nhưng hầu như không bao giờ gây bệnh ở trẻ em.
Bệnh bạch cầu dòng tuỷ mạn chủ yếu xảy ra ở người lớn. Rất ít trẻ em phát triển bệnh này.
Bệnh bạch cầu tế bào lông là một thể không bình thường của bệnh bạch cầu mạn. Thể loại này và loại bất thường khác của bệnh bạch cầu không được bàn đến ở đây. Dịch vụ thông tin ung thư có thể cung cấp thông tin về chúng.
Bệnh này cũng ảnh hưởng đến người lớn, đặc biệt những người tuổi 65 và già hơn.
Các triệu chứng của bệnh bạch cầu là gì?Những tế bào bệnh bạch cầu là dị thường không thể làm việc binh thường mà những tế bào máu làm. Chúng không thể giúp đỡ cơ thể đấu tranh chống lại bệnh truyền nhiễm. Vì lý do này, những người mắc bệnh bạch cầu thường dễ bị nhiễm trùng và sốt.
Đồng thời, những người bị bệnh bạch cầu thường có số lượng hồng cầu và tiểu cầu ít hơn người bình thường. Kết quả là không có đủ hồng cầu để mang oxy tới khấp các cơ quan trong cơ thể. Điều kiện này, được gọi là sự thiếu máu, những bệnh nhân có thể trông nhợt nhạt và cảm thấy yếu và mệt. Khi không có đủ tiểu cầu, người bệnh dễ bị chảy máu, bầm tím da.Như tất cả các tế bào máu, những tế bào bệnh bạch cầu cũng đi khắp cơ thể. Phụ thuộc vào số lượng tế bào dị thường và nơi mà những tế bào này tập trung, những bệnh nhân bệnh bạch cầu có thể có một số triệu chứng.
Trong bệnh bạch cầu cấp, những triệu chứng xuất hiện và trờ nên tồi hơn nhanh chóng. Những người mắc bệnh này thường đến khám bác sĩ vì họ cảm thấy ốm đi nhanh chóng. Trong bệnh bạch cầu kinh niên, những triệu chứng có thể không xuất hiện trong một thời gian dài. Khi những triệu chứng xuất hiện, lúc đầu nhẹ, sau đó xấu dần đi. Bác sĩ phát hiện bệnh bạch cầu kinh niên khi khám và làm xét nghiệm máu thường qui, mặc dù trước dó người bệnh không có bất kỳ những triệu chứng nào.
Đâu là triệu chứng chung của bệnh hạch cầu:
Sốt, rét run, và triệu chứng giống như cảm cúm khác.
Yếu và mệt.
Bị nhiễm trùng thường xuyên.
Kém ăn và giảm cân.
Sưng đau hạch bạch huyết, gan, lách to.
Bầm tím và chảy máu dễ dàng.
Sung và chảy máu chân răng.
Vã mồ hôi, đặc biệt là về đêm.
Đau khớp và xương.
Trong bệnh bạch cầu cấp, tế bào bất thường có thể tập trung trong não hoặc tủy sống (cũng được gọi là hệ thần kinh trung ương). Kết quả có thể là những bệnh nhức đầu, nôn, lú lẫn, mất kiểm soát cơ bắp, và co giật. Trong bệnh bạch cầu, tế bào cũng có thể tập họp ở tinh hoàn và gây sưng to. Một số bệnh nhân than đau ờ mắt hoặc trên da. Bệnh bạch cầu cũng có thể ảnh hưởng bộ máy tiêu hóa, thận, phổi, hoặc những bộ phận khác của cơ thể.
Trong bệnh bạch cầu kinh niên, những tế bào máu dị thường có thể từ từ tập hợp trong nhiều bộ phận của thân thể. Bệnh bạch cầu kinh niên có thể ảnh hưởng da, hệ thần kinh trung ương, bộ máy tiêu hóa, thận, và tinh hoàn.
Bệnh bạch cầu được chẩn đoán như thế nào?Nhũng xét nghiệm máu: cũng giúp đỡ trong chẩn đoán. Một mẫu máu được khảo sát dưới kính hiển vi để xem hình thể tế bào và để xác định số lượng tế bào trường thành và tế bào non. Mặc dầu những xét nghiệm máu có thể biểu lộ ra rằng bệnh nhân có bệnh bạch cầu, chúng có thể không chì ra kiểu bệnh bạch cầu là gì.
Đe kiểm tra hơn nữa cho những tế bào bệnh bạch cầu hoặc nói kiểu bệnh bạch cầu mà bệnh nhân có, bác sĩ huyết học, nhà ung thư, hoặc nhà giải phẫu bệnh khảo sát một mẫu tủy xương dưới kính hiển vi. Bác sĩ sẽ dùng một cây kim đâm vào vùng xương hông ( xương chậu ), để rút một ít tuỷ xương lỏng, khảo sát dưới kính hiển vi tìm những bất thường. Thủ thuật này được gọi là hút tủy xương để làm tuỷ đồ. Sinh thiết tùy xương được thực hiện với một cái kim to hơn và hút mảnh nhỏ của xương và tủy xương.
Nếu những tế bào bệnh bạch cầu được tìm thấy trong mẫu tủy xương, bác sĩ của bệnh nhân sẽ đề nghị những xét nghiệm khác tìm ra phạm vi bệnh. Dùng kim chọc dò tuỷ sống ( chọc ống sống thắt lưng) kiểm tra những tế bào bệnh bạch cầu trong dịch lỏng mà nó làm đầy những không gian bên trong và xung quanh não và tủy sống ( dịch não-tủy). Chụp X quang ngực có thể phát hiện ra dấu hiệu của bệnh trong ngực.
Bệnh bạch cầu được điều trị như thế nào?Việc điều trị bệnh bạch cầu thì phức tạp. Nó thay đổi tùy theo loại bệnh bạch cầu và không phải là giống nhau cho tất cả các bệnh nhân. Kế hoạch điều trị được tính toán chọn lựa để phù hợp với nhu cầu của từng bệnh nhân. Sự điều trị phụ thuộc không chỉ vào kiểu bệnh bạch cầu mà còn vào những đặc tính nhất định của tế bào bệnh bạch cầu, phạm vi bệnh, và liệu bệnh bạch cầu đã được điều trị trước đó hay chưa. Nó cũng phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân, triệu chứng, và sức khỏe nói chung.
Bất cứ khi nào có thể, bệnh nhân cần phải được điều trị tại trung tâm y học có các bác sỹ có kinh nghiệm trong việc điều trị bạch cầu. Nếu điều này là không thể, bác sỹ của bạn nên bàn bạc về kế hoạch điều trị với một chuyên gia ờ một trung tâm như vậy. Bác sỹ của bạn có thể gợi ý một bác sỹ chuyên về bệnh bạch cầu ở người lớn hoặc trẻ em. Bác sỹ điều trị bệnh bạch cầu người lớn là bác sỹ chuyên khoa ung thư, huyết học. Bác sỹ chuyên khoa ung thư và huyết học nhi khoa điều trị bệnh bạch cầu nhi khoa. Đồng thời, bệnh nhân và bác sỹ của họ có thể gọi Dịch vụ Thông tin Ung thư để yêu cầu Thông tin điều trị cập nhật từ Cơ sở dữ liệu của Viện Ung thư Quốc gia.
Bệnh bạch cầu cấp cần điều trị ngay tức thì. Mục đích của điều trị là mang lại sự giảm nhẹ bệnh. Rồi, khi không có bằng chứng của bệnh, nhiều liệu pháp chữa bệnh hơn có thể được đưa để ngăn ngừa một sự tái phát. Nhiều người với bệnh bạch cầu cấp có thể được điều trị khỏi.
Những bệnh nhân bị bệnh bạch cầu mạn không có triệu chứng có thể không yêu cầu sự điều trị tức thời. Tuy nhiên, họ cần phải kiểm tra y khoa thường xuyên sao cho bác sĩ có thể xem liệu bệnh có đang tiến triển hay không. Khi việc điều trị là cần thiết, điều trị giúp kiểm soát bệnh và triệu chứng. Tuy nhiên, bệnh bạch cầu kinh niên có thể hiếm khi được điều trị khỏi.
Nhiều bệnh nhân và những gia đình của họ muốn biết tất cả những điều họ có thể về bệnh bạch cầu và sự lựa chọn điều trị để họ có thể nắm lấy một phần tích cực trong những quyết định ve chăm sóc y khoa. Bác sĩ là người tốt nhất để trả lời những câu hỏi này. Khi bàn luận về điều trị, bệnh nhân ( hoặc, trong trường hợp trẻ em, gia đình bệnh nhân) có thể muốn nói với bác sĩ về sự nghiên cứu các phương pháp điều trị mới.
Chẩn đoán ung thư làm thay đổi cuộc sống bệnh nhân và người thân của họ. Những thay đổi này khó có thể điều khiển được. Bệnh nhân và gia đình họ và bạn bè có nhiều cảm xúc khác nhau và đôi lúc lại sợ.
Lúc này, bệnh nhân và người thân cảm thấy sợ hãi, giận dữ, hay trầm cảm. Dây là phản ứng bình thưòng khi họ đối mặt với vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng. Những bệnh nhân trẻ em và thiếu niên, thường có thể đương đầu những vấn đề này tốt hơn nếu họ có thể nói thoải mái về sức khoẻ và cảm xúc của họ với gia đình và bạn bè. Chia sẻ cảm xúc với người khác có thể giúp mọi người thấy dễ chịu hơn, đó là cách để người khác thấy sự lo âu và yêu cầu hỗ trợ cùa họ.
Mối quan tâm tương lai, như nặng về các kiểm tra, điều trị, nhập viện, viện phí. Việc nói với bác sĩ, y tá, nhân viên chăm sóc sức khoẻ có thể trấn an lo âu và cảm giác sợ hãi. Bệnh nhân có vai trò quyết định về việc chăm sóc và lựa chọn điều trị bàng cách đặt câu hỏi về ung thư máu. Họ có thể hỏi bất cứ điều gì mà họ thắc mẳc, chưa tường tận. Bệnh nhân và gia đình có nhiều câu hỏi quan trọng và bác sĩ là người hợp lý nhất trả lời.
Thỉnh thoảng, bệnh nhân dùng con số thống kê ước tính cơ hội chữa trị của họ. Tuy nhiên, nên nhớ rằng đây chỉ số liệu trung bình, chúng được tính dựa trên số lượng lớn và không có hai bệnh nhân ung thư nào hoàn toàn giống nhau. Chỉ bác sĩ theo dõi trực tiếp bệnh nhân mới hiểu rõ tình hình để bàn bạc về cơ hội hồi phục (tiên lưọng). Bác sĩ thường dùng “sống sót” hay “lui bệnh” hơn là khỏi bệnh. Ngay cả nhiều bệnh nhân ung thư máu hoàn toàn hồi phục, bởi vì bệnh có thể tái phát.
Học cách sống với những thay đổi do bệnh ung thư máu sẽ dễ dàng hon cho bệnh nhân và những người chăm sốc họ khi họ có sự trợ giúp thông tin và dịch vụ nâng đỡ. Nhiều bệnh nhân cảm thấy có ích khi nói chuyện với những người có hoàn cảnh giống họ, họ có thể gặp những người này do tự liên lạc hay nhờ nhóm trợ giúp.
Nhũng phương pháp điều trịĐa số các bệnh nhân bệnh bạch cầu được điều trị với liệu pháp chữa bệnh hóa chất. Một số khác điều trị bằng phóng xạ và ghép tủy xưong ( BMT) hoặc liệu pháp sinh học. Trong vài trường hợp, giải phẫu để cắt lách ( một phẫu thuật gọi là cắt bỏ lách) có thể là một phần của kế hoạch điều trị.
Hoá trị liệu là sự sử dụng thuốc để giết tế bào ung thư. Phụ thuộc vào loại bệnh bạch cầu, bệnh nhân có thể nhận một liều thuốc đon hoặc một sự kết hợp hai hoặc hon nữa loại thuốc điều trị.
Vài thuốc chống ung thư có thể được uống qua đường miệng. Hầu hết được tiêm thuốc vào tĩnh mạch. Thường, bệnh nhân cần có nhiều đường tĩnh mạch để nhận thuốc, thực hiện bằng cách dùng kim luồn vào tĩnh mạch. Một đầu ống nhỏ mềm dẻo được đặt vào trong tĩnh mạch lớn, thường trong ngực trên. Những thuốc được cho vào trong ổng hon là trực tiếp vào trong một tĩnh mạch, để tránh sự khó chịu của những lần bom tiêm nhắc lại và gây thương tổn đến da.
Thuốc chống ung thư được đưa vào cơ thể qua đường tiêm và đường uống vào dòng máu và ảnh hưởng tới các tế bào bệnh bạch cầu trong đa số các bộ phận của cơ thể. Tuy nhiên, những thuốc này thường không đến được những tế bào trong hệ thần kinh trung ương bởi vì chúng bị ngăn lại bời hàng rào máu não. Hàng rào bảo vệ này được hình thành bởi một mạng những mạch máu, nó lọc máu đi tới não và tủy sống. Để đạt đến những tế bào bệnh bạch cầu trong hệ thần kinh trung ương, bác sỹ sử dụng phép chữa bệnh hóa chất trong vỏ não. Trong kiểu điều trị này, thuốc chống ung thư trực tiếp được tiêm vào trong dịch não-tủy.
Phép chữa bệnh hóa chất trong vỏ có thể được đưa vào theo hai cách. Một số bệnh nhân nhận thuốc bởi tiêm vào trong phần thấp của cột sống. Những người khác, đặc biệt là trẻ con, nhận phép chữa bệnh hóa chất trong vỏ não thông qua một ống loại đặc biệt gọi là kho dự trữ Ommaya. Thiết bị này được đặt dưới da đầu, nơi mà nó cung cấp một đường mòn tới dịch não-tủy. Việc tiêm thuốc chống ung thư vào trong kho chứa thay vì vào trong xưc^ng sống có thể làm phép chữa bệnh hóa chất trong vỏ dễ hơn và thuận tiện hơn cho bệnh nhân.
Phép chữa bệnh hóa chất được đưa vào trong theo chu kỳ: thời kỳ điều trị theo sau đó là giai đoạn hồi phục, rồi thời kỳ điều trị khác, vân vân. Trong vài trường hợp, bệnh nhân được điều trị ngoại trú bệnh viện, ở phòng mạch bác sỹ hoặc ở nhà. Tuy nhiên, phụ thuộc vào những thuốc nào đã cho và sức khỏe chung cùa bệnh nhân, sự nằm viện có lẽ cũng cần thiết.
Liệu pháp phóng xạ được sử dụng cùng với phép chữa bệnh hóa chất cho vài loại bệnh bạch cầu. Liệu pháp phóng xạ ( cũng được gọi là trị liệu học bức xạ) sừ dụng những tia sáng năng lượng cao để làm hư hại những tế bào ung thư và ngăn chúng phát triển. Sự bức xạ đến từ một máy lớn. Liệu pháp phóng xạ cho bệnh bạch cầu có thể được đưa vào theo hai cách. Đối với một sổ bệnh nhân, bác sĩ có thể định hướng tia xạ tới một vùng đặc biệt cùa thân thể nơi có sự tập trung của các tế bào bệnh bạch cầu, như lách hoặc tinh hoàn. Những bệnh nhân khác có thể nhận sự bức xạ trực tiếp tới toàn bộ thân thể. Kiểu liệu pháp phóng xạ này, được gọi sự bức xạ tổng số – thân thể, thường được chì định trước khi cấy ghép tuỷ xương.
Ghép tuỷ cũng có thổ cũng được sử dụng cho vài bệnh nhân. Tủy xương sản sinh bệnh bạch cầu của bệnh nhân được phá hủy bởi những liều cao của những thuốc và sự bức xạ và rồi được thay thể bởi tủy xương mạnh khoẻ. Tủy xương mạnh khoẻ có thể lẩy từ một người cho, hoặc nó có thể là tủy của chính bệnh nhân sau khi đã lấy ra và diệt tế bào ung thư bằng hoá chất hoặc tia xạ rồi đưa ngược trờ lại cơ thể người bệnh. Những bệnh nhân được cấy mô tủy xương thông thường ở lại bệnh viện trong vài tuần. Cho đến khi tủy xương cấy bắt đầu sàn sinh đủ bạch cầu, trong suốt thời gian này bệnh nhân phải được bảo vệ cẩn thận tránh bị nhiễm trùng.
Liệu pháp sinh học là bao gồm việc điều trị bằng những chất có tác động tới hệ miễn dịch, giúp cơ thể chống lại bệnh ung thư. Chất kháng thể là một mẫu của liệu pháp sinh học được sử dụng cho vài loại bệnh bạch cầu. Interferon là chất dùng trong liệu pháp sinh học.
Có nhiều bệnh nhân bị bệnh bạch cầu (ung thư máu), tham gia vào thử nghiệm lâm sàng. Thử nghiệm lâm sàng giúp các bác sĩ tìm hiểu xem liệu một phác đồ điều trị mới có an toàn và hệu quả hay không. Thử nghiệm lâm sàng cũng giúp các bác sĩ hiểu được tác dụng của điều trị cũng như phản ứng phụ của nó.
Những bệnh nhân tham gia thử nghiệm cũng có thể là nhũng người đầu tiên được điều trị bằng các phác đồ mới có nhiều hứa hẹn trong nghiên cứu. Trong nhiều nghiên cứu một
Số bệnh nhân được điều trị bằng phác đồ mới trong khi số khác thì được điều trị bằng phác đồ chuẩn đã có từ trước và qua đó các bác sĩ sẽ so sánh sự khác biệt về hiệu quả điều trị. Những bệnh nhân tham gia nghiên cứu đã đóng góp một phần quan trọng cho sự phát triển của y học. Mặc dù có thể gặp vài rủi ro nhưng họ có thể trở thành những người đầu tiên được hường lợi từ các phương pháp điều trị tiên tiến.
Các bác sĩ đang nghiên cứu các phương pháp điều trị mới cho tất cả các loại bệnh bạch cầu (ung thư máu). Họ đang thử nghiệm các loại thuốc mới, cách phổi hợp thuốc hay sử dụng thuốc theo một trình tự mới. Họ cũng đang nghiên cứu phương cách cải thiện vấn đề ghép tủy.
Bệnh ung thư máu và phương pháp điều trị nó có thể gây ra một số biến chứng và tác dựng phụ. Bệnh nhân được chăm sóc hỗ trợ để ngừa và kiểm soát những biến chứng này cũng như để cải thiện chất lượng sổng cùa họ trong quá trình điều trị. Vì bệnh nhân ung thư máu rất dễ bị nhiễm trùng cơ hội nên họ cần được cho kháng sinh và một số thuốc khác để phòng ngừa. Những bệnh nhân này nên tránh tiếp xúc với đám đông hay những người đang bị cảm cúm hay đang bị một bệnh nhiễm trùng nào đó. Một khi họ bị nhiễm trùng thì cần phải nhập viện và điều trị kịp thời vì nó có thể trầm trọng.
Thiếu máu và chảy máu cũng là những vấn đề cần chăm sóc nâng đỡ. Truyền hồng cầu có thể giảm triệu chứng khó thở và mệt mỏi do thiếu máu gây ra. Truyền tiểu cầu giúp giảm nguy cơ chảy máu trầm trọng.
Chăm sóc nha khoa cũng rất quan trọng. Ung thư máu và hoá trị liệu có thể làm cho vùng miệng rất dễ bị nhiễm trùng và chảy máu. Các bác sĩ thường khuyên bệnh nhân khám nha khoa tổng quát trước khi bắt đầu hoá trị. Các nha sĩ sẽ giúp bệnh nhân cách giữ răng miệng sạch sẽ và tốt trong suốt quá trình điều trị.
Điều trị ung thư máu có những tác dụng phụ gì?Việc điều trị ung thư máu sẽ phá hủy cả tế bào ung thư máu và tế bào bình thường. Kiểm soát để hạn chế tác động cùa thuốc lên tế bào bình thường chỉ còn tác động lên tế bào ung thư máu để giảm tác dụng phụ của thuốc là một việc rất khó thực hiện.
Điều trị ung thư có rất nhiều lác dụng phụ. Chúng phụ thuộc chủ yếu vào loại phác đồ cũng như thời gian điều trị. Mỗi người sẽ có những phản ứng khác nhau và thậm chí trên cùng một bệnh nhân phản ứng phụ ờ đợt điều trị này có thể khác nhũng đợt khác. Nỗ lực của các nhà chuyên môn là giảm tác dụng phụ đến mức tối thiểu.
Các bác sĩ và y tá có thể giải thích những tác dụng phụ cho bệnh nhân biết và hướng dẫn họ thay đổi thuốc, chế độ ăn uống hay các biện pháp nào khác để đổi phó.
Điều trị bệnh bạch cầu cấp bằng thuốcTác dụng phụ của hoá trị liệu phụ thuộc chủ yếu vào loại thuốc bệnh nhân sử dụng. Ngoài ra, cũng như các phưong pháp trị liệu khác, tác dụng phụ ở mỗi người sẽ khác nhau. Thường thì thuốc chống ung thư tác động lên các tế bào đang trong giai đoạn phân chia. Các tế bào ung thư có đặc điểm phân chia nhiều hơn tế bào bình thường nên bị tác động bởi hoá trị liệu nhiều hơn. Tuy nhiên một số tế bào bình thường cũng bị phá huỷ. Các tế bào thường hay phân chia gồm tế bào máu; tế bào ở gốc lông, tóc hay ở đường tiêu hoá thường dễ bị phá huỷ. Khi hoá trị liệu ảnh hưởng lên tế bào bình thường nó sẽ làm giảm sức đề kháng của bệnh nhân đối với tình trạng nhiễm trùng và bệnh nhân có thể mất năng lượng và dễ bị bầm tím hay chảy máu. Đa số các tác dụng phụ sẽ hết từ từ trong giai đoạn hồi phục giữa các đợt điều trị và sau khi ngưng điều trị.
Một số loại thuốc chống ung thư có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của bệnh nhân. Kinh nguyệt có thể bị rối loạn hay ngưng hẳn và phụ nữ có thể bị triệu chứng mãn kinh như những con nóng bừng và khô âm đạo. Nam giới có thể ngưng tạo tinh trùng. Vì các biến đổi này có thể là vĩnh viễn nên một số đàn ông chọn cách giữ tinh trùng đông lạnh. Hầu hết trẻ em được điều trị ung thư máu có khả năng sinh sản bình thường khi chúng lớn lên. Tuy nhiên tuỳ theo loại thuốc và liều lượng sử dụng cũng như tuổi mà một số trẻ em trai và gái không thể có con khi họ trưởng thành.
Bệnh nhân bị xạ trị có thể rất mệt mỏi cho nên nghỉ ngoã là quan trọng nhưng các bác sĩ lại khuyên bệnh nhân vẫn duy trì hoạt động như trước.
Khi được xạ trị trực tiếp lên đầu thi bệnh nhân thường bị rụng tóc. Xạ trị có thể làm cho da đầu tại vùng chiếu xạ bị đỏ, khô, giòn và ngứa. Bệnh nhân nên được hướng dẫn cách chăm sóc da đầu sạch sẽ. Họ không nên sử dụng bất cứ loại nước hoa hay kem thoa lên vùng da chiếu xạ mà không tham khảo ý kiến của bác sĩ. Xạ trị có thể gây buồn nôn, nôn và mất cảm giác ngon miệng*. Những tác dụng phụ này là tạm thời và các bác sĩ và y tá có thể đề nghị cách kiểm soát chúng cho đến khi hoàn lất điều trị. Tuy nhiên một số tác dụng phụ có thể kéo dài. Trẻ em (mà đặc biệt là những trẻ nhỏ tuổi) được chiếu xạ ở não có thể ảnh hưởng đến việc học tập. Vì lý do này mà các bác sĩ sử dụng liều xạ trị thấp nhất có thể được và chỉ áp dụng cho những trẻ không thể điều trị bằng hoá trị đơn lẻ. Xạ trị tinh hoàn có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản cũng như việc sản xuất hormon. Hầu hết những bé trai bị xạ trị tinh hoàn không thể có con sau này và trẻ cần phải sử dụng hormon thay thế.
Bệnh nhân ghép tuỷ xương đối diện với nguy cơ nhiễm trùng, chảy máu và các tác dụng khác do được hoá trị và xạ trị với một liều lượng lớn.
Ngoài ra bệnh ký chủ thải ghép có thể xảy ra ở người nhận tuỷ ghép từ một người khác cho. Trong bệnh này tuỷ của người cho phản ứng chống lại mô của ký chủ (thường là gan, da và đường tiêu hoá). Bệnh này có thể từ mức độ nhẹ đến trầm trọng và có thể xảy ra vào bất cứ thời điểm nào sau khi ghép (thập chí vài năm sau). Có thể cho thuốc để làm giảm nguy cơ bệnh này và điều trị những biến chứng do nó gây ra.
Vấn đề dinh duỡng cho bệnh nhân ung thư
Một số bệnh nhân ung thư rất khó ăn uống, họ có thể mất cảm giác ngon miệng. Ngoài ra họ còn mắc phải những biến chứng thường gặp trong quá trình điều trị như buồn nôn, nôn, đau miệng nôn việc ăn uống có thể trở nên khó khăn. Một vài bệnh nhân thay đổi cảm giác đối với thức ăn (nói thêm; có thể trước đây họ thích ăn một loại thức ăn nào đó nhưng bây giờ lại không thích thậm chí thấy sợ loại thức ăn đó nữa). Hơn nữa khi khó chịu và mệt mỏi thì chẳng ai thích ăn uống nữa.
Ăn uống tốt có nghĩa là phải cung cấp đầy đủ năng lượng và protein để tránh sụt cân và lấy lại sức lực. Những bệnh nhân nào ăn uống tốt trong suốt quá trình điều trị sẽ cảm thấy tốt hơn và có nhiều năng lượng hơn và họ có thể vượt qua được những tác dụng phụ trong quá trình điều trị.
Các bác sĩ, y tá và các nhà dinh dưõng có thể tư vấn cho việc ăn uống trong quá trình điều trị ung thư.
Điều gì xảy ra sau khi điều trị ung thư máu?Tái khám đều đặn định kỳ là một việc hết sức quan trọng trong điều trị ung thư máu. Bác sĩ sẽ tiếp tục kiểm tra bệnh nhân chặt chẽ để chắc rằng ung thư không tái phát lại. Kiểm tra bao gồm kiểm tra máu, tuỷ xương và dịch não tuỷ. Mỗi lần kiểm tra bác sĩ phải khám lâm sàng cẩn thận.
Điều trị ung thư có thể gây ra các tác dụng phụ sau nhiều năm. Vì lý do này nên bệnh nhân phải tiếp tục được kiểm tra định kỳ và phải báo những thay đổi về mặt sức khoẻ cho bác sĩ ngay khi nó xảy ra. sống với một bệnh trầm trọng không phải là việc dễ. Bệnh nhân bị ung thư và những người chăm sóc họ phải đối mặt với nhiều vấn đề và thử thách lớn. Neu được cung cấp những thông tin hữu ích và các dụng cụ hỗ trợ thì việc đối phó với những khó khăn này sẽ dễ dàng hơn.
Bệnh nhân ung thư có thể lo lắng về công việc làm, về việc chăm lo cho gia đình hay những trách nhiệm khác. Cha mẹ đứa trẻ bị ung thư máu có thể lo lắng không biết con họ có thể học hành hay sinh hoạt bình thường hay không, chính những đứa trẻ cũng rất buồn vì không được tham gia những trò chơi với các bạn bè khác. Ngoài ra, những lo lắng về các xét nghiệm, phương pháp điều trị, ăn ờ trong bệnh viện cũng như chi phí điều trị là những vấn đề thường gặp. Bác sĩ, y tá và các nhân viên y tế khác có thể trả lời những câu hỏi về điều trị, công việc hay các khía cạnh khác, việc gặp gỡ người làm công tác xã hội, nhà tư vấn hay người làm từ thiện có thể hữu ích cho những bệnh nhân muốn bày tỏ những tâm tư tình cảm của mình.
Thường thì những nhân viên hoạt động xã hội tại bệnh viện hay phòng khám có thể đề nghị những hội, nhóm có thể giúp khôi phục, nâng đỡ tinh thần, hỗ trợ tài chánh, vận chuyển hay chăm sóc nhà cửa cho bệnh nhân.
Tương lai của bệnh nhân ung thư máu?Các nhà nghiên cửu đang tìm thấy những phương cách tốt hơn để điều trị ung thư máu và cơ hội hồi phục đang được cải thiện. Một điều hết sức tự nhiên là bệnh nhân ung thư và gia đình họ rất quan tâm về tương lai của họ. Một sổ người lấy chỉ số tỷ lệ sống còn và một vài thông số thống kê khác để cố đoán xem bệnh nhân có được chữa khỏi hay còn sống được bao lâu nữa.
Tuy nhiên một quan trọng cần nhớ rằng những thông số thống kê là những trị số trung bình được lấy từ một dân số lớn bệnh nhân. Chúng không thể được sử dụng để tiên đoán xem điều gì sẽ xảy ra cho một bệnh nhân nào đó vì không có lai bệnh nhân ung thư nào là giống nhau. Điều trị và đáp ứng điều trị rất khác biệt giữa các bệnh nhân ung thư. Người tiên lượng tốt nhất chính là bác sĩ điều trị cho bệnh nhân. Bệnh nhân và gia đình nên bình tĩnh để hỏi bác sĩ về tiên lượng bệnh, nhưng họ cần lưu ý rằng thậm chí bác sĩ cũng không thể biết chính xác điều gì sẽ xảy ra.
Bác sĩ thường nói về khía cạnh sống còn của bệnh ung thư và họ có thể sử dụng thuật ngữ thuyên giảm hon là chữa khỏi. Thậm chí ở nhiều bệnh nhân ung thư máu được chữa khỏi họ cũng sử dụng thuật ngữ này (tức bác sĩ nói là bệnh thuyên giảm) vì bệnh có thể tái phát trở lại.
Bệnh nhân ung thư máu nên lấy thông tin ở đâu?Tìm Hiểu Về Bệnh Bạch Cầu Cấp (Ung Thư Máu): Chẩn Đoán Và Cách Chữa Trị
Bạch cầu cấp thường được gọi nôm na là “ung thư máu”.
Mặc dù Bạch cầu cấp thường được coi là bệnh lý không thể chữa khỏi, nhưng gần đây kết quả điều trị tốt hơn nhiều nếu được điều trị thích hợp, nhờ sử dụng các phương pháp điều trị tiên tiến.
Bạch cầu cấp không phải là một bệnh lý đơn lẻ mà bao gồm nhiều loại bệnh.
Bạch cầu cấp là gì ? Ung thư máu trong tủy xương
Tế bào gốc tạo máu trong tủy xương sinh ra cả ba dòng tế bào máu khác nhau.Đó là hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.
Bạch cầu cấp là bệnh lý do các tế bào máu bị ung thư hóa trong quá trình tạo ra các tế bào máu. Các tế bào ung thư nhân lên rất nhanh. Và nếu không được điều trị, các tế bào này sẽ ứ đọng trong tủy xương và tác động cản trở quá trình tạo ra các tế bào máu bình thường. Do các tế bào ung thư có thể lan tràn đi rất xa trong cơ thể nên có thể gây ra hàng loạt triệu chứng ở nhiều cơ quan khác nhau. Bệnh bạch cầu cấp tiến triển nhanh và có thể gây tử vong trong vòng vài tuần đến vài tháng nếu không được điều trị.Tuy nhiên nếu được điều trị sớm và đúng cách có thể đẩy lui bệnh.
Nguyên nhân chưa được xác định rõ ràng:
Trong nhiều trường hợp nguyên nhân không thể xác định rõ ràng. Tuy nhiên bệnh có thể được hình thành khi các gen trong tế bào máu bị tổn thương. Ví dụ: tiếp xúc với tia xạ gây tổn thương gen của tế bào, làm tăng nguy cơ xuất hiện ung thư.
Ung thư máu không phải là bệnh lý di truyền hay truyền nhiễm.
Các thể bệnh và xếp loại?
Một nhóm là bạch cầu cấp dòng tủy (AML) do các tế bào dòng tủy bị ung thư hóa và nhóm còn lại là bạch cầu cấp dòng lympho (ALL) do tế bào lympho bị tổn thương ung thư.
Hai nhóm ung thư máu có những đặc điểm khác nhau. Ví dụ, bạch cầu cấp dòng lympho thường gặp ở trẻ em hơn so với dòng tủy. Các thể bệnh bạch cầu cấp khác nhau đòi hỏi các phương pháp điều trị khác nhau và kết quả điều trị cũng khác nhau.
Bạch cầu cấp dòng tủy (AML):
Bạch cầu cấp dòng tủy phát triển do tổn thương ung thư hóa của các tế bào dòng bạch cầu hạt, hồng cầu, tiểu cầu, mà không phải dòng lympho. Bảng xếp loại FAB dựa trên hình thái tế bào xếp thành 8 thể loại khác nhau dựa trên sự phát triển của tế bào ung thư máu từ M0-M7.
Bạch cầu cấp dòng tủy dòng lympho (ALL):
Bạch cầu cấp dòng lympho xuất hiện do tổn thương ung thư hóa dòng tế bào lympho. Bảng xếp loại FAB chia bạch cầu cấp dòng lympho thành 3 thể khác nhau: L1, L2, L3.
Triệu chứng?
Trong bệnh bạch cầu cấp, nhiều triệu chứng xuất hiện không những do sản xuất không đủ các loại tế bào máu bình thường trong tủy, mà còn do các tế bào ung thư lan tràn khắp cơ thể. Triệu chứng do giảm các tế bào máu bình thường:
Dễ bị nhiễm khuẩn là triệu chứng kết hợp với hiện tượng giảm số lượng bạch cầu ở máu ngoại vi. Chức năng của bạch cầu là bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài ví dụ tác nhân vi khuẩn, vì vậy lượng bạch cầu bị giảm sút dẫn đến không đủ khả năng chống đỡ, hậu quả là bệnh nhân ung thư máu dễ bị nhiễm khuẩn.
Xét nghiệm và chẩn đoán?
Xét nghiệm tế bào máu-xét nghiệm máu:
Trong bệnh bạch cầu cấp, các tế bào bất thường có thể quan sát được. Số lượng bạch cầu có thể tăng hoặc giảm, giảm số lượng tiểu cầu. Trong một số trường hợp, có thể quan sát được tế bào ung thư ở máu ngoại vi.
Xét nghiệm tủy- chọc hút tủy xương:
Chọc hút tủy xương là việc lấy một số lượng nhỏ mô tủy dưới dạng dịch lỏng để xác định sự có mặt của các tế bào ung thư, là yếu tố quyết định để chẩn đoán bạch cầu cấp.
Phân tích huyết thanh và nước tiểu- xét nghiệm hóa sinh:
Xét nghiệm này sẽ phân tích các thành phần máu và nước tiểu.Nồng độ acid uric trong huyết tương và trong nước tiểu, nồng độ LDH sẽ tăng trong bệnh bạch cầu cấp.
Quan sát hình thái tế bào- quy trình nhuộm đặc biệt:
Chuẩn bị tiêu bản máu để quan sát hình thái các tế bào máu.
Dung dịch Giemsa thường được dùng để nhuộm tiêu bản.
Nhuộm đặc biệt như Peroxydase, Esterase không đặc hiệu, và PAS thường được sử dụng để xếp thể bệnh bạch cầu cấp.
Xét nghiệm phân loại tế bào- kháng nguyên bề mặt tế bào:
Các kháng nguyên trên bề mặt màng tế bào thể hiện đặc trưng cho từng dòng tế bào.
Xét nghiệm tìm bất thường gen- tìm bất thường nhiễm sắc thể:
Các bất thường gen và nhiễm sắc thể có thể được tìm thấy ở những tế bào bạch cầu ác tính.
Các phương pháp điều trị?
Điều trị tấn công lui bệnh: để đẩy lùi tế bào ác tính đồng thời cho phép tế bào bình thường hồi phục.
Điều trị sau lui bệnh: mục đích làm giảm tối thiểu số lượng tế bào ác tính, đồng thời tế bào máu trở lại mức bình thường. gọi là lui bệnh hoàn toàn. Nếu ngừng điều trị ở giai đoạn này, hầu hết bệnh nhân sẽ bị tái phát.
Ghép tế bào gốc tạo máu: là phương pháp được tiến hành để làm giảm nguy cơ tái phát và đạt gần đến tình trạng chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân. Ghép tế bào gốc tạo máu sử dụng hóa trị liệu/xạ trị toàn thân với liều cao để phá hủy tối đa số lượng tế bào bạch cầu ác tính trong cơ thể. Vì phương pháp điều trị này cũng làm tổn thương cả các tế bào gốc tạo máu bình thường trong cơ thể nên các tế bào gốc mới cần được ghép vào sau khi điều trị.
Chỉ định ghép phụ thuộc vào độ tuổi của bệnh nhân, tình trạng toàn thân và chức năng của các cơ quan trong cơ thể.
Chăm sóc sau khi xuất viện? Điều trị và theo dõi:
Sau quá trình điều trị nội trú, bệnh nhân đã hoàn tất thành công quá trình điều trị và nên được tiếp tục điều trị định kì và theo dõi. Và tình trạng khi ra viện không có nghĩa là bệnh được chữa khỏi, do vậy điều quan trọng là tiếp tục theo dõi điều trị cùng với tư vấn sát sao của bác sĩ điều trị. Bệnh nhân phải được sử dụng thuốc theo chỉ định với liều lượng chính xác, định kì và khám kiểm tra theo hẹn để đảm bảo rằng họ nhận thức chính xác về tình trạng bệnh tật và sức khỏe của mình.
Vì bệnh nhân thường giảm sút sức khỏe sau quá trình điều trị và sau thời gian nằm viện dài ngày, họ thường cần thích nghi dần với cuộc sống hàng ngày đặc biệt với công việc nên không đặt họ vào bất kì sức ép thái quá nào. Một khuyến cáo chung là bệnh nhân nên được phục hồi chức năng về xã hội một cách từ từ đồng thời với mức độ tình trạng sức khỏe của cơ thể theo lời khuyên của bác sĩ. Ngoài ra bệnh nhân phải thường xuyên theo dõi nhiệt độ cơ thể, trọng lượng, chế độ vận động thể lực.
Bệnh nhân nên cố gắng duy trì chế độ ăn cân bằng đủ dinh dưỡng và luôn có ý thức cố gắng sử dụng thực phẩm giàu năng lượng và protein.
Một số liệu trình điều trị có thể phải hạn chế sử dụng muối hoặc một số loại thực phẩm khi số lượng bạch cầu giảm thấp, lời khuyên chung là nên tránh tối đa mọi loại thức ăn sống.
Kiểm soát nhiễm khuẩn:
Tùy thuộc vào tình trạng của bệnh nhân sau điều trị, đặc biệt khi số lượng bạch cầu giảm thấp do hóa trị hoặc sau khi ghép tế bào gốc tạo máu, bệnh nhân có thể rất dễ bị nhiễm khuẩn, nhiễm nấm, vi rút và các tác nhân khác. Lời khuyên là cần nên tránh chỗ đông người, duy trì thói quen sử dụng khẩu trang, và rửa tay để phòng nhiễm khuẩn.
Ths.BS. Đỗ Thị Hải Vân – BS. Nguyễn Đắc Quỳnh Anh – TS. BS. Huỳnh Văn Mẫn – Theo Bthh
Tìm Hiểu Về Bệnh Ung Thư Máu
Bạch cầu là một trong ba loại tế bào của máu: hồng cầu, bạch cầu và tiểu bào. Hồng cầu chứa huyết cầu tố, mang dưỡng khí nuôi các cơ quan bộ phận. Bạch cầu có nhiệm vụ chống lại các chất lạ như vi sinh vật, hóa chất xâm nhập cơ thể và tạo ra kháng thể. Tiểu cầu giúp máu đóng cục, tránh xuất huyết ở vết thương.
Phần dung dịch lỏng của máu là huyết tương, có các hóa chất hòa tan như đạm, tùy theo tốc độ tiến triển tình trạng nặng nhẹ của bệnh. Trường hợp cấp tính, xuất hiện nhiều tế bào máu chưa trưởng thành và vô dụng ở tủy xương và máu. Bệnh nhân bị thiếu máu vì hồng cầu thấp; dễ xuất huyết vì thiếu tiểu cầu; dễ mắc bệnh nhiễm vì khả năng tự vệ giảm. Do đó bệnh trở nên trầm trọng rất nhanh. Trong mãn tính, dấu hiệu xảy ra hormone, khoáng, vitamins, kháng thể.
Bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng) (bệnh máu trắng) có cả ở súc vật như mèo, heo, trâu bò và dĩ nhiên ở người. Với người, bệnh xuất hiện ở bất cứ tuổi nào. Nam giới bị ung thư máu (bệnh máu trắng) nhiều hơn nữ giới.
Ung thư máu có thể là mạn tính hoặc cấp tính, chậm hơn, bệnh nhân có đủ thời gian tạo ra tế bào máu trưởng thành nhưng có thể chuyển sang tình trạng cấp tính. Ung thư máu (bệnh máu trắng) mãn tính nhiều hơn cấp tính và thường thấy ở người ngoài 67 tuổi. Trẻ em dưới 19 tuổi thường hay bị ung thư máu (bệnh máu trắng) cấp tính lympho bào.
Ung thư cũng được chia loại tùy theo bạch cầu ác tính được tạo ra từ hệ bạch huyết hoặc từ tủy xương.
Nguyên nhân đích thực của bệnh chưa được biết rõ, nhưng một số rủi ro có thể gây ra bệnh. Đó là:
– Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ, như trường hợp các nạn nhân bom nguyên tử ở Nhật vào cuối Thế Chiến II, vụ tai nạn nổ lò nguyên tử Chernobyl (Ukraine) năm 1986 hoặc ở bệnh nhân tiếp nhận xạ trị.
– Bệnh nhân ung thư được điều trị bằng dược phẩm.
– Làm việc trong môi trường có nhiều hóa chất như benzene, formaldehyde.
– Một số bệnh do thay đổi gene như hội chứng Down, do virus hoặc vài bệnh về máu.
Triệu chứng của bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng)
Sốt, đau đầu, đau khớp do sự chèn ép trong tủy Sốt, rét run, và triệu chứng giống như cảm cúm. Mệt mỏi, yếu sức, da đổi thành màu trắng nhợt do thiếu hồng cầu Hay bị nhiễm trùng do bạch cầu không thực hiện được chức năng chống nhiễm khuẩn Chảy máu chân/nướu răng do giảm khả năng làm đông máu Dễ bầm tím và dễ chảy máu. Biếng ăn, sút cân. Ra mồ hôi về ban đêm ở bệnh nhân là nữ Sưng nề bụng hoặc cảm giác khó chịu ở bụng. Đau khớp và xương.
Nếu không được điều trị, ung thư máu cấp tính đưa tới tử vong rất mau. Ung thư mạn tính có thể không có dấu hiệu, khó chẩn đoán, dễ tử vong vì bội nhiễm các loại vi khuẩn. Đôi khi bệnh được khám phá tình cờ trong khi khám sức khỏe tổng quát.
Để xác định bệnh, bác sĩ sẽ thực hiện các bước như sau:
Khám tổng quát cơ thể, tìm coi gan, lách, hạch có sưng; Thử nghiệm đếm số tế bào máu và số lượng huyết cầu tố, các chức năng của gan, thận; Xét nghiệm tế bào tủy xương và nước tủy, Chụp hình X-quang cơ thể.
Điều trị
Bệnh cần được các bác sĩ chuyên môn nhiều ngành như huyết học, u bướu hóa xạ trị chăm sóc, điều trị. Mục đích điều trị là đưa bệnh tới tình trạng không còn triệu chứng, bệnh nhân bình phục với tế bào máu và tủy xương lành mạnh như trước. Phương thức điều trị tùy thuộc vào một số yếu tố như loại ung thư, giai đoạn bệnh, tuổi tác và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
Các phương pháp trị liệu gồm có:
a. Hóa trị (Chemotherapy)
Hóa trị dùng các dược phẩm khác nhau bằng cách uống, chích vào tĩnh mạch hoặc vào tủy xương để tiêu diệt tế bào ung thư. Hóa trị rất công hiệu và được áp dụng cho đa số bệnh nhân. Có nhiều loại thuốc và người bệnh có thể chỉ uống một thứ hoặc phối hợp hai ba thuốc. Tuy nhiên, hóa trị cũng ảnh hưởng tới các tế bào bình thường và gây ra một số tác dụng phụ như rụng tóc, lở môi miệng, nôn mửa, tiêu chẩy, ăn mất ngon, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn sinh sản.
b. Xạ trị (Radiation therapy)
Với một máy phát xạ lớn, các tia phóng xạ được đưa vào các bộ phận có nhiều bạch cầu ung thư tụ tập, như lá lách, não bộ để tiêu diệt chúng. Tác dụng phụ gồm có: mệt mỏi, viêm đau nơi da nhận tia xạ.
c. Sinh trị liệu (Biological Therapy)
Còn gọi là miễn dịch trị liệu, sinh trị liệu sử dụng kháng thể để hủy hoại tế bào ung thư. Kháng thể là những chất đạm đặc biệt được cơ thể sản xuất khi có một vật lạ xâm nhập. Kháng thể này sẽ phát hiện và tiêu diệt các vật lạ đó khi chúng trở lại cơ thể.
Sinh trị liệu được thực hiện qua hai phương thức:
Gây miễn dịch để kích thích, huấn luyện hệ miễn dịch nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư Cho bệnh nhân dùng các kháng thể đặc biệt được sản xuất trong phòng thí nghiệm để trị ung thư.
d. Ghép tế bào gốc (Stem Cell Transplant)
Ghép tủy là lấy tủy xương (thường là ở xương hông) có tế bào gốc của một người cho khỏe mạnh rồi đưa vào người bệnh với mục đích tái tạo tế bào máu và hệ thống miễn dịch. Tế bào gốc từ máu, cuống rốn thai nhi và nhau thai cũng được dùng để điều trị một vài loại ung thư máu.
Trong bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng), tế bào gốc của tủy bị lỗi, sản xuất ra quá nhiều bạch cầu non yếu nhưng ác tính, gây trở ngại cho sự tăng sinh của tế bào bình thường ở máu.
Ghép tủy không hoàn toàn bảo đảm tránh được sự tái phát của ung thư nhưng có thể tăng khả năng trị bệnh và kéo dài đời sống người bệnh.
Phòng ngừa
Một số bệnh ung thư có thể phòng ngừa bằng cách giảm thiểu tiếp xúc với rủi ro gây ung thư (như tránh khói thuốc lá), bằng nếp sống lành mạnh (không hút thuốc lá, uống nhiều rượu…), bằng dinh dưỡng đầy đủ hợp lý. Riêng với ung thư bạch cầu thì không có các rủi ro rõ rệt để phòng tránh.
Vì vậy người thường xuyên tiếp xúc với phóng xạ, hóa chất độc mà có những dấu hiệu bệnh bất thường đều nên đi kiểm tra sức khỏe theo định kỳ để sớm khám phá ra bệnh.
Ghép Tế Bào Gốc.
Vào giữa thế kỷ thứ 19, các khoa học gia người Ý đã gợi ý rằng tủy xương là nguồn gốc của tế báo máu nhờ có một hóa chất nào đó trong tủy. Tới đầu thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu chứng minh là một số tế bào ở tủy tạo ra tế bào máu. Họ gọi các tế bào này là “tế bào gốc”-stem cells. Kết quả nhiều nghiên cứu kế tiếp đã xác định dữ kiện này.
Tế bào gốc có trong tủy xương và máu. Tủy là lớp mô bào xốp nằm giữa các khoảng trống của xương. Ở trẻ sơ sinh, tất cả xương đều có tủy hoạt động mạnh. Tới tuổi tráng niên, tủy ở xương tay chân ngưng hoạt động trong khi đó tủy ở các xương sọ, hông, sườn, ức, cột sống vẫn tiếp tục sản xuất tế bào gốc.
Đặc tính của các tế bào gốc là có thể tự sinh ra tế bào khác y hệt như mình và tạo ra các tế bào trưởng thành như hồng cầu, bạch huyết cầu, tiểu cầu.
Ngoài tủy xương, tế bào gốc còn có trong dòng máu lưu thông hoặc máu từ cuống rốn thai nhi, nhau thai.. Ở tủy xương, cứ khoảng 100,000 tế bào máu thì có một tế bào gốc, trong khi đó số lượng tế bào gốc ở máu chỉ bằng 1/100 ở tủy.
Khái niệm ghép tủy để trị bệnh được khảo sát một cách khoa học vào cuối thế chiến II khi có nhiều nạn nhân bị hoại tủy do tiếp cận với phóng xạ, đặc biệt là sau vụ nổ bom nguyên tử ở Nhật.
Kỹ thuật ghép tủy xương được thực hiện thành công vào năm 1968 để điều trị các bệnh ung thư bạch cầu, thiếu máu vô sinh (aplastic anemia), u ác tính các hạch bạch huyết như bệnh Hodgkin, rối loạn miễn dịch và vài loại u như ung thư noãn sào, vú.
Trong ghép tủy, các tế bào bệnh hoạn của tủy bị tiêu diệt và tế bào gốc lành mạnh được truyền vào máu, tập trung vào ổ xương và bắt đầu sinh ra tế bào máu bình thường cũng như thiết lập một hệ miễn dịch mới.
Ghép tế bào gốc cứu sống nhiều người và chỉ thực hiện được khi có người cho thích hợp. Điều này không dễ dàng, vì để phương thức thành công, tế bào đôi bên phải hầu như 100% tương xứng. Chỉ dưới 30% bệnh nhân cần ghép tế bào mầm có thể tìm được tương xứng ở thân nhân.
Cùng Chuyên Mục Bình Luận Facebook
Bệnh Bạch Cầu Cấp Tính (Bệnh Máu Trắng)
Tên khác: bệnh máu trắng
Nhóm bệnh máu ác tính do những nguyên bạch cầu sinh sản ác tính, kèm theo suy tủy xương, và thường có tổn hại về chất lượng và số lượng của những bạch cầu trong máu. Người ta phân biệt:
Bệnh bạch cầu nguyên bào lympho hoặc lympho bào cấp tính.
Bệnh bạch cầu nguyên tủy bào hoặc không phải nguyên lympho bào cấp tính.
Phân biệt giữa hai bệnh này quan trọng vì biện pháp điều trị hai thể bệnh này khác nhau.
Chưa rõ. Tủy xương tăng số lượng tế bào và bị thâm nhiễm bởi những tế bào non (tế bào chưa biệt hoá, chưa trưởng thành, hoặc nguyên bạch cầu). Bệnh bạch cầu cấp tính đôi khi là thứ phát sau khi bị phơi nhiễm với bức xạ, sau khi sử dụng những thuốc ức chế miễn dịch, dưới tác động của một số hoá chất (benzol), hoặc thứ phát sau một bệnh máu khác (như bệnh thiếu máu dai dẳng) hoặc là kết quả của một bất thường về gen (chuyển vị 4/11). Một nguyên nhân nữa có khả năng là bộ gen của một virus xâm nhập vào tế bào.
BỆNH BẠCH CẦU NGUYÊN BÀO LYMPHO (Ll hoặc L2): là những thể thường gặp ở trẻ em.
BỆNH BẠCH CẦU “BURKITT” (L3): có thể kết hợp với u lympho bào Burkitt, với khu trú sau phúc mạc hoặc màng não.
BỆNH BẠCH CẦU NGUYÊN TỦY BÀO (Ml hoặc M2): là những thể thường gặp ở người lớn.
BỆNH BẠCH CẦU TIỀN TỦY bào (M3): có khả năng gây ra đông máu nội mạch rải rác.
BÊNH BẠCH CẦU NGUYÊN TỦY BÀO ĐON nhân (M4): tăng lysozym trong máu và trong nước tiểu.
BỆNH BẠCH CẦU NGUYÊN BÀO ĐON nhân (M5): trong máu có những tế bào tủy chưa biệt hoá (chưa trưởng thành) và nhiều bạch cầu đơn nhân.
TĂNG SINH NGUYÊN HỒNG CẦU- BẠCH CẦU (M6): hay gặp ở những đối tượng có hội chứng ba nhiễm sắc thể 21. Trong máu xuất hiện những nguyên hồng cầu loạn dưỡng.
BỆNH BẠCH CẦU NGUYÊN BÀO NHÂN KHỔNG Lổ (M7): hay gặp ở đối tượng mắc hội. chứng ba nhiễm sắc thể 21. Xơ hoá tủy xương kết hợp
Triệu chứngBệnh bạch cầu nguyên bào lympho cấp tính hay gặp nhất ở trẻ em từ 3 đến 5 tuổi, và chiếm 1/3 số bệnh ác tính của trẻ em. Bệnh bạch cầu nguyên tủy bào cấp tính gặp ở mọi lứa tuổi.
KHỞI PHÁT: thông thường bệnh khởi phát đột ngột bởi sốt và ảnh hưởng tình trạng toàn thân. Nếu bệnh bạch cầu đi kèm với giảm bạch cầu hạt trung tính, thì bệnh có thể khởi đầu bằng viêm họng hoặc viêm loét miệng, còn nếu kết hợp với giảm tiểu cầu thì bệnh bắt đầu bằng ban xuất huyết đi kèm với chảy máu niêm mạc hoặc chảy máu trong cơ quan. Trước khi khởi phát lâm sàng thường có một giai đoạn tiềm tàng, trong giai đoạn này những bất thường về huyết học đã phát triển, ở những người già, trước giai đoạn cấp tính thường có hội chứng loạn sản tủy xương.
GIAI ĐOẠN TOÀN PHÁT
Hội chứng thiếu máu: bệnh nhân xanh xao, suy nhược, khó thở.
Hội chứng chảy máu: chảy máu cam, chảy máu lợi, chảy máu trong các tạng, chảy máu võng mạc, ban xuất huyết với vết bầm máu và tụ máu dưới da.
Sưng hạch bạch huyết và gan lách to: rất hay gặp trong bệnh bạch cầu nguyên bào lympho. Có trong một nửa số trường hợp bệnh bạch cầu nguyên tủy bào.
Hội chứng xương:đau xương, chụp X quang thấy những vùng hiếm mô xương, u màu lục là một khối u khu trú ở các xương, đặc biệt là ở hốc mắt, thường đi kèm triệu chứng lồi mắt, đôi khi cũng thấy trong bệnh bạch cầu nguyên tủy bào.
Viêm màng não bệnh bạch cầu: với những dấu hiệu tăng áp nội sọ, nhức đầu, co giật, phù mí mắt, liệt các dây thần kinh sọ.
NHỮNG BIỂU HIỆN KHÁC: hội chứng chèn ép trung thất, hội chứng bụng, tổn thương da. Các nguyên bạch cầu có thể thâm nhiễm vào mọi cơ quan.
Xét nghiệm cận lâm sàng+ Hồng cầu: thiếu máu đẳng sắc, hồng cầu bình thường (không tái tạo) nặng, thấy trong phần lớn các trường hợp.
+ Bạch cầu: số lượng trong máu có thể bình thường, giảm (trong 1/3 số trường hợp), hoặc tăng và biến động từ 10.000 đến 100.000µl. Trên phiến đồ máu nhuộm, người ta có thể nhầm những bạch cầu bất thường hoặc bạch cầu non (nguyên bào) với những tế bào lympho. Sự xuất hiện những thể Auer (thể hình que ưa xanh (lam) anilin trong bào tương của những nguyên tủy bào hoặc nguyên bào đơn nhân là nét điển hình của bệnh bạch cầu hạt cấp tính.
+ Tiểu cầu: giảm về số lượng, thường chỉ còn dưới 100.000/µl.
Tủy đồ:tủy xương phong phú tế bào với trên 30% là những nguyên bạch cầu, chỉ những chuyên gia có kinh nghiệm mới phân biệt được những thể khác nhau của những nguyên bào này (nguyên bào lympho, nguyên tủy bào, tiền tủy bào, nguyên bào bạch cầu đơn nhân) (có nhiều typ tế bào học đã được mô tả). Những yếu tố tế bào bình thường (tế bào dòng bạch cầu ở giai đoạn biệt hoá hơn, nguyên hồng cầu, và tế bào nhân khổng lồ) hầu như hoàn toàn không còn. Nên chọc dò tủy xương ở nhiều vị trí khác nhau, và làm sinh thiết tủy xương.
Khảo sát khả năng cầm máu:kết quả không bình thường do giảm tiểu cầu hoặc đôi khi do đông máu nội mạch rải rác, thường gặp trong thể bệnh bạch cầu tiền tủy bào đi kèm tai biến chảy máu nặng.
Dịch não tuỷ:đôi khi có chứa các nguyên bào bạch cầu, tăng hàm lượng protein (khi bệnh có khu trú ở màng não).
Kiểu nhân:khảo sát tủy đồ thường được bổ sung bởi nghiên cứu hoá-tế bào những tế bào ác tính và kiểu nhân của chúng. Kết quả nghiên cứu này, nếu liên kết với xác định kiểu hình, rất quan trọng đối với tiên lượng. Trong bệnh bạch cầu nguyên bào lympho cấp tính, người ta có thể thấy có chuyển vị 4/11. Với những bất thường của nhiễm sắc thể 5 và 7 trong trường hợp bệnh bạch cầu tủy mạn tính ở người già, có thể nghĩ tới diễn biến của một hội chứng loạn sản tủy xương và do đó nên có tiên lượng dè dặt.
Những dấu ấn miễn dịch: những kháng thể đơn clôn (đơn dòng) đặc hiệu đối với những kháng nguyên của các tế bào B và T và tủy bào đều có ích trong việc xác định các typ khác nhau của bệnh bạch cầu.
Những xét nghiệm khác-.lysozym trong máu và trong nước tiểu tăng trong những thể tiền tủy bào. Acid uric huyết và phospho huyết có thể tăng trong những thể nguyên bào lympho.
Xét nghiệm bổ sung
Chụp X quang bộ xương: thấy hình ảnh tiêu xương, mất calci ở phần nối thân xương với đầu xương, .V…Những bất thường về xương rất hay gặp ở bệnh nhi và ở một nửa số trường hợp bệnh nhân người lớn.
Khám đáy mắt: có thể thấy xuất huyết võng mạc, phù gai thị.
Chẩn đoán căn cứ vào
Các triệu chứng: khó chịu, đau xương, sốt, xanh xao.
Viêm họng hoặc loét các niêm mạc, ban xuất huyết, sưng hạch bạch huyết, và lách to.
Thiếu máu, giảm tiểu cầu, có các bạch cầu bất thường trong máu.
Chẩn đoán được khẳng định bởi tủy đồ.
Với thể nguyên bào lympho, bệnh có thể thuyên giảm lâu dài trong 70% các trường hợp được điều trị, và -ở trẻ em trên 2 tuổi thì có 50% trường hợp khỏi bệnh, trong khi ở người lớn những thời kỳ bệnh thuyên giảm thường ngắn. Với những thể nguyên tủy bào ở người lớn, thì thời kỳ thuyên giảm dài có thể đạt được là 30% số trường hợp được điều trị.
Với những bệnh nhân trên 60 tuổi, bệnh bạch cầu có tiên lượng dè dặt; vì lý do độc tính tăng lên của những thuốc chống ung thư, đôi khi người ta cho rằng không điều trị thay cho liệu pháp hoá chất lại là điều hợp lý.
THỂ NGUYÊN BÀO LYMPHO
Điều trị tấn công (cảm ứng):
+ Vincristin: 2mg/m 2 tiêm tĩnh mạch một lần một tuần trong 4 tuần.
+ Prednisone: 40 mg/m 2 mỗi ngày, uống trong 4 tuần.
Điều trị duy trì: sau khi bệnh thuyên giảm (độ phong phú tế bào của tủy xương trỏ lại bình thường với dưới 5% nguyên bạch cầu), cho dùng methotrexat 15mg/m2, uông 2 lần mỗi tuần, tiếp theo sau là một đợt điều trị tấn công mới (được gọi là điều trị củng cố).
Trong trường hợp tái phát, thực hiện lại liều điều trị tấn công, nhưng những đợt thuyên giảm cũng thường ngắn.
Methotrexat theo đường chọc ống sống và tuỳ tình hình chiếu xạ trục não tủy sống (2.400 rad), nếu thấy có những dấu hiệu hệ thần kinh bị xâm lấn.
Những chất kích thích miễn dịch không đặc hiệu đang trong giai đoạn thử nghiệm.
THỂ NGUYÊN TỦY BÀO: có nhiều phác đồ được đề xuất tuỳ theo những thể bệnh bạch cầu khác nhau.
THỂ TIỀN TỦY BÀO: cho uống acid retinoic “đồng phân trans” (ATRA) đã cho những kết quả đáng quan tâm, đặc biệt để sửa chữa những rối loạn đông máu mà không gây ra bất sản tủy xương.
ĐIỀU TRỊ TRIỆU CHỨNG
Thuốc kháng sinh tiêm tĩnh mạch nếu thấy có những dấu hiệu đầu tiên bị nhiễm khuẩn.
Phòng ngừa lắng đọng urat trong các Ống thận: đảm bảo cơ thể đủ nước là quan trọng, kiềm hoá nước tiểu và cho allopurinol (kìm hãm sự hình thành acid uric).
Truyền hồng cầu (trong trường hợp thiếu máu), truyền tiểu cầu (trong trường hợp giảm tiểu cầu), và truyền bạch cầu ( trong trường hợp giảm bạch cầu hạt và nhiễm khuẩn).
Liệu pháp bức xạ tại chỗ: thường hay có hiệu quả đối với trường hợp bị đau, trường hợp sưng hạch gây khó thở hoặc khó nuốt, và trường hợp bệnh xâm lấn vào hệ thần kinh trung ương.
GHÉP TỦY XUƠNG ĐỔNG LOÀI: có thể xem xét để điều trị những bệnh nhân trẻ tuổi trong trường hợp đặc biệt khi lấy được tủy xương của người cho cùng huyết thống và phù hợp mô.
PHÒNG NGỪA NHIỄM KHUẨN: ví dụ cho cotrimoxazol để phòng ngừa bệnh viêm phổi do pneumocystis carinii; vô khuẩn nghiêm ngặt.
Triệu Chứng Của Bệnh Ung Thư Máu (Bệnh Bạch Cầu)
Ung thư máu (bệnh máu trắng) là bệnh ác tính của các tổ chức tạo máu. Trong máu có các tế bào máu khác nhau với các chức năng khác nhau, được chia làm 3 loại, được gọi là 3 dòng tế bào:
Bạch cầu: có chức năng chống lại sự nhiễm khuẩn.
Hồng cầu: có chức năng vận chuyển ôxy đến các tổ chức trong cơ thể.
Tiểu cầu: có chức năng đông máu, để kiểm soát sự chảy máu.
Các tế bào máu không tự sinh ra trong máu mà được tạo ra từ tế bào nguồn trong tủy xương, phát triển thành các dòng tế bào. Các tế bào máu liên tục chết đi và các tế bào mới được hình thành thay thế cho các tế bào chết. Việc tạo ra tế bào máu mới liên tục được tiếp diễn trong tủy xương sao cho tế bào của mỗi dòng ổn định về hình thái với số lượng trong một phạm vi tương đối ổn định.
Ở các bệnh nhân bị bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng), quá trình tạo tế bào máu trong tủy xương bị biến đổi, tạo ra các tế bào bạch cầu bất thường, đó là các tế bào bạch cầu ác tính. Không giống các tế bào máu bình thường, các tế bào máu ác tính không chết đi mà có thể tăng sinh phát triển vô độ, lấn át các dòng tế bào máu bình thường khác, làm cho chúng không được thực hiện chức năng bình thường.
Các thể bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng)
bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng) được chia thành các nhóm khác nhau theo sự tiến triển của bệnh:
bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng) mạn tính: Là thể bệnh có tiến triển chậm, có thể kéo dài nhiều năm, nhất là nếu bệnh nhân được điều trị đúng cách. Trong giai đoạn sớm của bệnh, tế bào bạch cầu ác tính còn có khả năng thực hiện một số chức năng bình thường của bạch cầu. Lúc đầu bệnh nhân có thể không có triệu chứng gì. Bệnh thường được phát hiện qua khám định kỳ trước khi các triệu chứng của bệnh xuất hiện. Dần dần, các tế bào bạch cầu ác tính trở nên tồi tệ hơn. Khi số lượng các tế bào ác tính tăng sinh trong máu, các triệu chứng xuất hiện như: nổi hạch hay nhiễm khuẩn. Lúc đầu các triệu chứng còn ở thể nhẹ sau đó trở nên nặng nề hơn.
bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng) cấp tính: Là thể bệnh ác tính hơn, tiến triển nhanh. Ngay khi bệnh bắt đầu, tế bào bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng) không thể thực hiện được vai trò của tế bào bình thường. Số lượng tế bào bạch cầu ác tính phát triển rất nhanh.
Triệu chứng của bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng)
Giống như các tế bào máu khác, tế bào bạch cầu ác tính di chuyển trong máu gây nên các triệu chứng. Các triệu chứng này phụ thuộc số lượng tế bào bạch cầu ác tính, vị trí các tế bào này gây ảnh hưởng.
Ở thể bạch cầu mạn tính, bệnh thường được phát hiện qua khám định kỳ và làm xét nghiệm máu vì bệnh nhân không có triệu chứng.
Ngược lại, các bệnh nhân bị bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng) cấp tính thường đến bệnh viện khám với các triệu chứng rầm rộ hơn. Nếu não bị tổn thương, thường có các triệu chứng như đau đầu, nôn, lú lẫn, mất trương lực cơ, động kinh. bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng) cũng có thể ảnh hưởng các vị trí khác trong cơ thể như: hệ tiêu hóa, thận, phổi, tim, tinh hoàn.
Khi tế bào dạng bạch cầu ung thư phát triển nhanh trong tủy sẽ gây đau nhức xương. Đồng thời chúng chiếm chỗ và làm giảm sự phát triển những tế bào máu bình thường khác. Lúc đó bệnh nhân có thể có những triệu chứng sau:
Sốt, đau đầu, đau khớp do sự chèn ép trong tủy
Sốt, rét run, và triệu chứng giống như cảm cúm.
Mệt mỏi, yếu sức, da đổi thành màu trắng nhợt do thiếu hồng cầu
Hay bị nhiễm trùng do bạch cầu không thực hiện được chức năng chống nhiễm khuẩn
Chảy máu chân/nướu răng do giảm khả năng làm đông máu
Dễ bầm tím và dễ chảy máu.
Biếng ăn, sút cân.
Ra mồ hôi về ban đêm ở bệnh nhân là nữ
Sưng nề bụng hoặc cảm giác khó chịu ở bụng.
Đau khớp và xương.
Trong bệnh bạch cầu cấp tính, tế bào bất thường có thể tập trung trong não hoặc tủy sống ( cũng được gọi là hệ thần kinh trung ương). Kết quả có thể là những bệnh nhức đầu, nôn, lú lẫn, mất kiểm soát cơ bắp, và co giật. Trong bệnh bạch cầu, tế bào cũng có thể tập hợp ở tinh hoàn và gây sưng to. Một số bệnh nhân thanđau ở mắt hoặc trên da. Bệnh bạch cầu cũng có thể ảnh hưởng bộ máy tiêu hóa, thận, phổi, hoặc những bộ phận khác của cơ thể.
Trong bệnh bạch cầu mạn tính, những tế bào máu dị thường có thể từ từ tập hợp trong nhiều bộ phận của thân thể. Bệnh bạch cầu kinh niên có thể ảnh hưởng da, hệ thần kinh trung ương, bộ máy tiêu hóa, thận, và tinh hoàn.
Phần lớn các triệu chứng này không phải là đặc trưng cho ung thư nên dễ bị người bệnh bỏ qua, vì vậy, khi có một trong bất kỳ dấu hiệu nào nêu trên, người bệnh cần đến bác sỹ ngay để được khám, chẩn đoán, tư vấn và điều trị.
Y Dược 365 (TH)
Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Bệnh Ung Thư Máu (Bệnh Máu Trắng, Bệnh Bạch Cầu) trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!