Xu Hướng 9/2023 # Hội Chứng Giảm Đẻ Trên Vịt (Byd) # Top 9 Xem Nhiều | Zqnx.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Hội Chứng Giảm Đẻ Trên Vịt (Byd) # Top 9 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Hội Chứng Giảm Đẻ Trên Vịt (Byd) được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Hội chứng giảm đẻ trên vịt là một bệnh do virus xuất hiện từ tháng 04/2010 tại Trung Quốc. Bệnh gây biểu hiện rõ ràng nhất là giảm tỉ lệ đẻ trên vịt gây thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi. Chăn nuôi VN xin chia sẻ với bạn đọc “Hội chứng giảm đẻ trên vịt (BYD)”

Hội chứng giảm đẻ trên vịt (BYD) do một chủng flavivirus mới, có tên là BYD virus, cùng loài với Tembusu virus.

Đây là dịch bệnh nghiêm trọng trên vịt đầu tiên có nguyên nhân từ flavivirus truyền lây giữa người và động vật chưa từng được công bố. Nó có ảnh hưởng to lớn tới nền công nghiệp chăn nuôi vịt, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á, nơi mà chăn nuôi vịt rất phổ biến và loài muỗi hoạt động rất nhiều.

II. Triệu chứng Đàn nhiễm bệnh có dấu hiệu đặc trưng là giảm ăn đột ngột, cùng với giảm đẻ mạnh tỷ lệ đẻ giảm nghiêm trọng (10%-15) trong 5 ngày.

Tiêu chảy phân xanh cũng thường xuyên xuất hiện trong đàn

Một số có biểu hiện đi lại bất thường, khó khăn hoặc bị liệt

Tỷ lệ chết dao động từ 5 tới 15% tùy thuộc vào điều kiện chăm sóc.

Một số có biểu hiện nang trứng vỡ và viêm màng bụng, đôi khi lách sưng.

Biến đổi bệnh lý vi thể đặc trưng nhất của bệnh là xuất huyết buồng trứng, nang trứng hẹp và vỡ. Nang vỡ và mô kẽ được chứa đầy thể ái toan hình hạt hoặc tròn. Thể ái toan cũng được tìm thấy trong huyết quản của nhiều cơ quan nội tạng. Tăng sinh tế bào thần kinh đệm ở não, thâm nhiễm tế bào lympho ở màng nhện.

– Hội chứng giảm đẻ trên vịt (BYD) hiện chưa có vắc xin phòng bệnh do đó người chăn nuôi cần thực hiện tốt các biện pháp vệ sinh, định kỳ sát trùng chuồng trại và khu vực chăn nuôi.

– Tuân thủ quy trình vắc xin phòng bệnh

– Đảm bảo sức khỏe đàn vịt bằng các thuốc bổ trợ (B.Complex, Multi Vitamin).

– Khi thời tiết thay đổi cần chủ động phòng các bệnh nhiễm khuẩn bằng kháng sinh, Gluco, Vitamin C.

Team chúng tôi

Kết nối với chúng tôi!

Đăng ký kênh YOUTUBE HỘI CHĂN NUÔI

Nghe Chuyên Gia Giải Đáp Về Hội Chứng Vịt Giảm Đẻ Do Flavivirus

Ông Jerome Buoucherot – Chuyên gia ngành vịt Công ty Grimaud (Pháp) đã giải đáp một số thắc mắc với quý độc giả của Tạp chí Chăn nuôi về hội chứng giảm đẻ do Flavivirus.

Về Parvovirus: Dịch bệnh này có ở vịt Muscovy, ngỗng hoặc vịt Mulard. Đối với vịt thuần Pekin thì không nhạy cảm với bệnh này.

Để kiểm soát việc cho ăn, các nhà lai tạo cần đưa ra các hướng dẫn và khuyến cáo về lượng thức ăn phù hợp với tập tính của giống vịt. Bạn vui lòng tham khảo lượng thức ăn khuyến cáo tại phần cuối của sách hướng dẫn kĩ thuật nuôi và dựa vào đó thì trọng lượng vịt cũng sẽ phát triển dựa theo đồ thị trong sách hướng dẫn.

Bạn lưu ý nên cân và theo dõi trọng lượng vịt hàng tuần (1 tuần 1 lần) ngay trước khi cho ăn và dựa vào đó để điều chỉnh lại lượng thức ăn phù hợp. Không nên giảm lượng thức ăn đi mà nên giữ ổn định hoặc tăng thêm.

Trọng lượng vịt đạt đỉnh sẽ là 3,4 kg đối với vịt mái khi đạt đỉnh đẻ và 4,2 kg đối với vịt đực. Sau 50 tuần đẻ thì trọng lượng con mái sẽ ở mức 3,6-3,8kg và con đực là 4,4 kg tùy thuộc vào cách quản lý cho ăn của bạn. Mấu chốt là trọng lượng cơ thể mục tiêu trước khi kết hợp vịt mái và vịt đực.

Thường vịt sẽ đẻ rộ sau 1 giờ mở đèn đúng không? Thời điểm thích hợp tắt mở đèn trong ngày, ví dụ: mở đèn từ 3h-19h, tắt đèn 19h-3h.

Điều này phụ thuộc vào kiểu nhà cho vịt giống của bạn. Nếu nhà dạng kín thì thường mở đèn lúc 5 giờ sáng. Nếu nhà sử dụng ánh sáng tự nhiên thì cần phải thích nghi với thời gian thực tế trong ngày. Điều quan trọng là phải giữ điều kiện ánh sángmột cách ổn định nhất, do đó nên bật đèn trước khi mặt trời lặn.

Về cơ bản, tốt nhất là nên điều trị tại tuần 20, 21 sau đó để qua thời kì đỉnh đẻ. Bất kì loại vắc xin hoặc kháng sinh nào thì cũng đều gây ra sự stress và ảnh hưởng tới hiệu suất đẻ của vịt. Về “Molecule” thì không hạn chế, điều này nên tham khảo từ bác sĩ thú y của Việt Nam để có lời khuyên tốt nhất. Ở Pháp, chúng tôi chỉ sử dụng kháng sinh khi thật cần thiết.

Chúng tôi có vắc xin cho bệnh này tại Pháp, nhưng chúng tôi không được phép xuất sang Việt Nam. Các bạn có thể liên hệ công ty Viphavet, họ có thể tư vấn thêm.

Trứng bẩn nên được làm sạch một cách thủ công trước (có thể dùng bàn chải để cọ). Sau đó bạn có thể phun Vetamios QG với tỉ lệ 0,5% (glutaraldehyd).

Trong trường hợp trứng thực sự bẩn thì cần rửa sạch trứng. Nếu rửa trứng thì cần làm khô trứng hoàn toàn và nên đặt trứng đó ở phía đáy của máy ấp trứng.

Một số công ty sử dụng Clorine để làm sạch trứng (loại bỏ lớp biểu bì vỏ trứng).

Tại Grimaudm, chúng tôi khuyên nên giữ lại lớp biểu bì đó vì lớp đó là một rào cản tự nhiên để chống lại vi khuẩn xâm nhập vào trứng.Một số công ty thì lại khuyến cáo nên loại bỏ lớp đó bằng Clorine;Do đó, quy trình/quá trình ấp nở cũng khác nhau.

Formol và thuốc tím là những chất sát trùng mạnh và hiệu quả. Rủi ro duy nhất khi sử dụng những chất này đó là nồng độ của sản phẩm cần phải thích hợp với kích thước và tuổi trứng. Nếu sử dụng với nồng độ cao thì sẽ bít các lỗ trên vỏ trứng lại và sẽ dẫn tới phôi bị ngạt thở do không được cung cấp oxi.

Khi cho trứng vào máy ấp thì tốt nhất là nên phân loại và cho ấp theo trọng lượng trứng giống nhau. Quả trứng nhỏ hơn có vỏ dày hơn sẽ cần thời gian ấp lâu hơn so với quả trứng lớn có vỏ mỏng hơn. Nên để tỉ lệ 5g/m² và thời gian nở có thể chênh lệch khoảng 12 tiếng.

Một con vịt con sẽ có trọng lượng vào khoảng 55-62 gram và chiếm khoảng 63% trọng lượng trứng.

Việc vịt con sau khi nở bị hở rốn là dấu hiệu của quá trình ấp nở không tốt. Việc tái hấp thu túi noãn hoàn không được thực hiện đúng cách. Vịt bị hở rốn thường là do kết quả của việc trứng được lưu trữ trong thời gian quá lâu hoặc trứng tới từ những con vịt già. Nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp, việc thiếu nước trong quá trình ủ hoặc quá trình ấp quá lâu cũng gây ra việc này.

Tốt nhất là có một phòng xử lý không khí và độ ẩm trước khi cho vào máy ấp để đảm bảo độ ổn định.

Có thể sử dụng đèn soi trứng chuyên dụng hoặc tự thiết kế một hệ thống soi trứng bằng cách sử dụng đèn neon lớn đặt dưới bàn soi.

Trứng bẩn cần phải được làm sạch (bằng bàn chải hoặc bằng nước) trước khi được ấp. Sau đó, nên đặt chúng ở phía dưới cùng của máy ấp.Trứng bẩn vẫn có thể nở được nhưng khả năng nở sẽ giảm. Trứng bẩn không rửa thì khả năng nở giảm 4-5%. Trứng bẩn đã được rửa thì khả năng nở giảm từ 10-15%.

Chân thành cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này,

Hội Chứng Vịt Con. Hội Chứng Vịt Con Xấu Xí

Đôi khi chúng ta gặp những người như bể tại rào chắn. Họ kịch liệt bảo vệ vị trí của họ. Chắc chắn là một cộng để bất cứ ai có một ý kiến cá nhân: nó đã chứng minh cho sự phát triển trí tuệ và giáo dục. Nhưng lắng nghe những gì người khác nói, sẽ không thừa. Xét cho cùng, sự thật được sinh ra trong cuộc tranh luận. Chỉ bằng cách phân tích và so sánh các sự kiện có thể đến quyết định đúng đắn.

tim

Các nhà tâm lý làm cho kết luận không sai lầm từ bên trên có thể chẩn đoán cá nhân vịt con hội chứng. “Cái gì thế?” – Bạn hỏi. Để giải thích tính năng này của tinh thần con người có thể là ví dụ về tình hình bình thường. Những người bị rối loạn như vậy, trong mọi lĩnh vực của cô lập hàng đầu, theo ý kiến, sản phẩm, dịch vụ, ý kiến, đánh giá, kết luận của họ, và như vậy. Thông thường nó là đối tượng mà họ đang gặp phải đầu tiên trong lĩnh vực này.

Xem xét tình hình khi các cô gái trở thành vợ và tình nhân của ngôi nhà của mình, tôi đã đi đến các cửa hàng cho đồ dùng cho tổ tình yêu của bạn. Đừng ngần ngại, cô đã mua một cốc gốm và đĩa, bởi vì đây là những từ mẹ hoặc bà ngoại. đây là lần đầu tiên trong đời tôi ăn một món ăn tương tự, do đó, không chấp nhận ngay cả những khả năng để mua một cái gì đó khác. Đầu tiên, nó về cơ bản không muốn làm điều đó. Thứ hai, người phụ nữ chắc chắn một trăm phần trăm rằng sự lựa chọn của gốm sứ – chỉ chính xác và không thể chối cãi. Nói tóm lại, hội chứng vịt con – một hiện tượng tâm lý, khi người ta học hỏi những điều mới mẻ, có thể bị kẹt vào nó cho đến khi ông qua đời.

Tại sao con vịt?

Để trở thành rất trung thực, hội chứng nên được giới thiệu đến một con ngỗng. Trong danh dự của vịt của ông gọi vì một lỗi trong bản dịch từ tiếng Đức sang tiếng Anh. Bằng cách này, nó không phải là đáng ngạc nhiên rằng quê hương của rối loạn này là Đức: chỉ người Aryan thuần túy rất có nguyên tắc, chính xác, đều đặn, pedantic và bảo thủ. Và phổ biến này đặc điểm có thể được truy trong tất cả các đại diện của cuộc đua này.

rối loạn của tên xuất phát từ một hiện tượng động vật thú vị. hội chứng vịt con trong môi trường phát hiện một nhà khoa học Úc Konrad Lorenz, người đã viết nhiều hơn một cuốn sách về phong tục học – khoa học nghiên cứu về hành vi của động vật. Vì vậy, ông đã mở một tài sản tuyệt vời ngỗng sơ sinh họ cảm nhận đối với bất kỳ người mẹ đầu tiên lọt vào mắt của họ sau khi sinh. Đó là nở từ trứng và nhìn thấy một vật thể di chuyển, cho dù đó là một con đà điểu, bò hoặc một món đồ chơi gió lên, họ mặc nhiên bắt đầu lặp lại hành vi và hành động của mình. Vì lý do này, nó thường là một tình cảm sâu sắc đối với người dân ngỗng, chó, mèo hoặc vật nuôi khác.

nguyên nhân của

hội chứng vịt con … nó là gì? Nhà tâm lý học nói rằng căn bệnh này không thể được gọi là hiện tượng nêu trên. Họ có xu hướng tin rằng, đúng hơn, nó là một loại suy nghĩ sai như tiềm thức và nhận ra các thiết lập sai khiến cá nhân một dòng cụ thể của đạo đức. Các nguyên nhân có thể có một vài. Và quan trọng nhất – một giáo dục bảo thủ. Thông thường, trẻ em lớn lên trong gia đình có quy định chặt chẽ, cố gắng nổi loạn chống lại những truyền thống thành lập. Rời ngôi nhà của cha mẹ, họ về cơ bản làm thay đổi cuộc sống cho đến nay ghét và cố gắng cho hương vị tối đa tất cả những niềm vui của sự tồn tại.

Nhưng cũng có những trẻ em bị tâm lý yếu: các bậc cha mẹ nên nghiền nát bởi những ham muốn riêng của họ, họ chỉ không đã biết những gì họ muốn và làm thế nào để làm điều đó. Vì vậy, vô tình lặp lại những hành động của người mẹ và người cha. “Họ luôn luôn có bữa ăn sáng bột yến mạch? Oh yeah, không có gì tốt hơn và bạn không thể đưa ra cho một bữa ăn sáng. Sữa chua, bánh mì nướng với trà? Không, không, là bạn “- vì vậy một số người suy đoán, hội chứng vịt con kiếm được. Ngoài ra, lý do cho sự xuất hiện của nó có thể trở nên căng thẳng có kinh nghiệm, chấn thương hoặc rối loạn cảm xúc. Trong mọi trường hợp, rối loạn này không phải là bẩm sinh, nhưng luôn luôn mua lại.

Làm thế nào để thoát khỏi? Nếu vịt con xấu xí

Hai hiện tượng thường bị nhầm lẫn, nhưng họ hoàn toàn khác nhau từ mỗi khác. hội chứng vịt con xấu xí là việc chuyển nhượng của cá nhân từ xã hội: gia đình, bạn bè, người quen. Đang phát triển thường sâu trong thời thơ ấu của tôi, nó làm cho người nước ngoài em bé, người ngoài cuộc. Những lý do có thể rất khác nhau: sự xuất hiện bất thường, một cách bất thường suy nghĩ, thiếu hàng hóa vật chất. Thường vịt xấu xí biến thành trẻ vị thành niên lớn lên trong gia đình bất thường. Bên cạnh đó, việc sử dụng thường xuyên của cha mẹ hoặc thờ ơ của họ, không có khả năng để tìm một cách tiếp cận để người thừa kế, sự miễn cưỡng nói chuyện với anh trái tim với trái tim, và do đó thoát khỏi phức, làm cho đứa trẻ bị ruồng bỏ một thực.

Những đứa trẻ này đang thực sự để lại một mình. Vâng, nếu một người trưởng thành, một người sẽ có thể chấp nhận những thiếu sót của nó như là một biểu hiện của cá tính riêng của họ. Và nếu không muốn nói? Trong trường hợp này, ông sẽ tiếp tục cung như thế ra một cuộc sống cô đơn. Tắt từ các cá nhân xã hội thường không thể làm mà không cần sự hỗ trợ của một bác sĩ chuyên khoa.

Lời khuyên cho cha mẹ

Một nhà hiền triết phương Đông nói: “Tôi đã giận dữ rằng tôi không có giày cho đến khi tôi gặp một người đàn ông không có chân.” Cụm từ này phải là một định đề cho từng cá nhân. Thông thường trẻ em không thấy bản thân như vậy tất cả vì sự xuất hiện. Nếu đây không phải là lỗ hổng nghiêm trọng tuân theo sự điều chỉnh, ví dụ, béo phì, hãy nói với con bạn rằng bạn sẽ giúp anh ta để khắc phục khiếm khuyết. Ngồi xuống với nhau và tìm ra một chế độ ăn uống: trong mọi trường hợp, đừng để trẻ một mình với vấn đề này, làm tất cả những tốt nhất cho bạn để giải quyết nó.

hội chứng vịt con, xấu xí, và tất cả các diễn viên, có thể xảy ra khi em bé được sinh ra tàn tật hoặc tụt hậu so với sự phát triển. Peers thường độc ác và trêu chọc anh ta, vì vậy tốt nhất để viết con trai ông đến một trường học đặc biệt. Giữ nó, nói rằng nó là dành cho bạn, mặc dù vấn đề tốt nhất và yêu thích. Chứng minh hành vi này và hành động. Nhấn mạnh đến phẩm giá của một đứa trẻ: có thể nó đẹp vẽ hoặc hát. Phát triển các kỹ năng, nâng cao tài năng của bạn. Nhận thấy rằng ông có món quà nào đó, bé sẽ không còn được đóng lại, sẽ có thể tìm bạn bè và xã hội của riêng mình.

kết quả

Chúng ta đều nhớ câu chuyện vĩ đại của Andersen từ chối bởi vịt con xã hội. Nhưng chúng ta quên rằng nó đã kết thúc kết thúc có hậu: việc tạo ra lông vụng về trở thành một con thiên nga xinh đẹp. Giọng chú ý của bạn trong tập này của lịch sử. Nhưng hãy nhớ rằng một sự thay đổi như vậy đã xảy ra và bạn cần phải chứng minh những nỗ lực ít nhất tối thiểu.

hội chứng vịt con ở người, hoặc đơn giản xấu xí, xảy ra do thiếu sự quan tâm. Một người bị tước đoạt hỗ trợ vòng tròn khép kín của người mà anh thường áp đặt bản thân phức không tồn tại và các vấn đề tâm lý. Nếu bạn nhận thấy rằng cũng cho vào tác động tiêu cực, tìm cho mình một trải nghiệm thú vị. Một sở thích mới sẽ đưa bạn trở lại cuộc sống, hãy giải trí: thời gian cho những suy nghĩ buồn và đau khổ về tinh thần gần như không còn tồn tại. Nếu tự để khắc phục những vấn đề là không thể, tìm sự giúp đỡ đặc biệt. Một bác sĩ có kinh nghiệm sẽ đưa ra lời khuyên tốt và giúp bạn tiết kiệm từ một rối loạn tâm thần, đó là dễ dàng, đủ để nói lời tạm biệt.

Bệnh Escherichia Coli Trên Vịt Tại Tỉnh Trà Vinh

Bảng 1: Phát hiện E.coli theo mẫu bệnh tích (n=203)

Ghi chú: Những giá trị mang chữ cáitrên cùng một cột khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Trong 1.015 mẫu phân lập vi khuẩn E.coli, phân chiếm tỷ lệ cao nhất (98,03%), tiếp theo là gan (72,91%), phổi (71,34%), hai cơ quan có tỷ lệ nhiễm thấp là tủy xương 65,02 và và lách 64,53% (P=0,000). Kết quả trên cũng cho thấy tỷ lệ hiện diện của vi khuẩn E.coli trên các cơ quan của vịt bệnh khá cao có thể lý giải dựa vào cơ chế tác động và sinh bệnh của vi khuẩn E.coli. Theo Gyles và Fairbrother (2010), vi khuẩn E.coli bằng cách trực tiếp hay gián tiếp đã xâm nhập vào đường tiêu hóa và vượt qua hàng rào bảo vệ ở bề mặt tế bào biểu mô ruột. Khi vi khuẩn này tấn công vào tế bào biểu mô ruột thì tứ tế bào niêm mạc ruột, vi khuẩn E.coli vào hệ thống hạch ruột qua hệ bạch huyết vào hệ tuần hoàn, mắt và khớp gây viêm bao tim, viêm vòi trứng, viêm khớp, đồng thời chúng được giữ lại trong cơ thể bởi các hệ thống lọc của gan, thận, lách.

Bảng 2: Tần suất triệu chứng bệnh ở vịt E.coli(n=199)

Tất cả 199 con dương tính với E.coli cho thấy triệu chứng tiêu chảy phân trắng-xanh có tần suất cao nhất (100%), kế đến là mắt mờ đục với tần suất 74,37%, sau đó là chân khô (71,14%), các triệu chứng ít phổ biến như mắt sưng, viêm hốc mắt chiếm 45,23%, đầu sưng chiếm tỷ lệ thấp nhất (41,71%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Điều này có nghĩa là tần suất xuất hiện các triệu chứng nhiễm E.coli không tương đương nhau. Các triệu chứng của vịt bệnh do E.coli như tiêu chảy phân trằng-xanh, mắt sưng, mắt kéo mây mờ đục, tiêu chảy phân loãng có màu vàng, phân dính hậu môn, viêm khớp có thể bại liệt.

Bảng 3: Phân bố bệnh E.coli trên vịt theo phương thức nuôi (n=46)

Bảng 4: Phân bố bệnh E.coli trên vịt theo lứa tuổi (n=46)

Bảng 5. Phân bố bệnh E.coli trên vịt theo giống (n=46)

Số vịt mắc bệnh E.coli xảy ra trên cả 3 giống vịt khác nhau. Vịt Cò là giống thích nghi với đời sống chăn thả, có tập tính theo đàn, di chuyển nhanh, tìm kiếm mồi giỏi, chịu đựng kham khổ, chống đỡ bệnh tốt, thuận lợi cho việc chăn thả trên đồng bãi, còn vịt Super Meat là giống vịt công nghiệp chuyên thịt, sức chống đỡ bệnh kém, chịu đựng kham khổ kém…Tuy các giống vịt có phương thức chăm sóc, nuôi dưỡng, sức đề kháng khác nhau, nhưng khi gặp phải các yếu tố bất lợi của môi trường, ý thức chăn nuôi của con người không tốt, thức ăn nước uống không đảm bảo vệ sinh thì vi khuẩn E.coli sẽ tấn công gây bệnh khi đủ số lượng và độc lực.

Bảng 6: Phân bố bệnh E.coli trên vịt theo mục đích sử dụng (n=49)

Ở tỉnh Trà Vinh, giống vịt dùng để sản xuất thịt chủ yếu là Super Meat và sản xuất trứng là vịt Cò, một số ít hộ nuôi giống vịt Xiêm hay Hòa Lan với qui mô đàn nhỏ dùng với mục đích thịt hoặc vịt con giống tái sản xuất hoặc bán với hình thức nhỏ lẻ. Bệnh E.coli xảy ra ở tất cả các giống vịt (P=0,000). Số liệu phân tích cũng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh do nhiễm E.coli không phụ thuộc vào mục đích nuôi lấy trứng hay lấy thịt. Vịt được nuôi thịt hay lấy trứng theo phương thức nuôi nhốt nhiều hơn chạy đồng có thể do mật độ nuôi cao hơn so với chạy đồng, điều này làm cho vi khuẩn tấn công và gây bệnh hoặc mầm bệnh có thể được lan truyền nhanh chóng và dễ dàng từ con mắc bệnh sang con khỏe trong đàn. Ngoài ra, số lựợng lớn E.coli thường thể hiện ở ngay môi trường chuồng nuôi nếu bị bẩn và ướt, thông thoáng kém và độ ẩm cao. Điều kiện này phụ thuộc rất nhiều vào số lượng vịt trong chuồng nuôi. Mặt khác, khi điều tra vịt nuôi với mục đích lấy trứng hay lấy thịt nhưng không được tiêm vắc xin phòng bệnh E.coli nên có nguy cơ mắc bệnh này cao.

Bảng 7: Phân bố bệnh E.coli trên vịt theo mùa (n=46)

Kết quả đề kháng kháng sinh của E.coli phân lập trên vịt

Bảng 8. Tần suất bệnh phẩm ở vịt do E.coli(n=199)

Quan sát nội quan trên 199 con vịt có biểu hiện triệu chứng bệnh E.coli sau khi mổ khám cho thấy một số bệnh tích có tần suất cao như túi khí mờ đục cao nhất (74,37%), kế đến lách sưng to đen (67,84%), màng bao tim viêm (62,31%), màng phổi xuất huyết (59,80%), gan sưng hoại tử (57,29%), gan phủ fibrin (54,27%), túi khí có u hạt (51,26%), cơ tim phù (49,25%), phổi sung huyết (48,74%), túi lòng đỏ không tiêu (46,23%), Ngoài ra, cũng có vài bệnh tích với tần suất thấp như ruột có u hạt (21,61%), túi mật sưng (14,57%), gan có màu xanh lục (12,56%), với (P=0,000).

Khảo sát sự đề kháng kháng sinh cho thấy các chủng chúng tôi đã kháng với nhiều loại kháng sinh đang được sử dụng trong thực tiễn khi vịt mắc bệnh (trong đó có bệnh E.coli). Vi khuẩn chúng tôi kháng cao nhất là streptomycin, chiếm 78,79%, kế đến trimethoprim/sulfamethoxazole 74,24%, ampicillin 71,97% và tetracycline 60,61%. chúng tôi còn nhạy cảm cao với kháng sinh amikacin có tỷ lệ 98,48%, kế đến là colistin 93,18%, norfloxacin 84,09%, gentamycin 81,82%, cefuroxime 80,3%, fosfomycin 74,24% và doxycycline 73,48%.

Do kháng sinh được người dân bổ sung thường xuyên vào thức ăn như yếu tố để phòng, trị bệnh và kích thích tăng trưởng. Bùi ThịTho (2003) cũng có nhận định E.coli là vi khuẩn có khả năng tăng sức đề kháng với kháng sinh nhanh nhất, kháng thuốc mạnh và tràn lan, hiện tượng đa kháng và đề kháng chéo của E.coli đối với kháng sinh cũng rất phổ biến.

Nhưng sự đa kháng kháng sinh của E.coli trên vịt tại tỉnh Trà Vinh phổ biến nhất với kiểu hình Sm-Am-Bt với 16 kiểu đa khángvi khuẩn E.coli. Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu về sự đề kháng đối với kháng sinh của 100 nhóm huyết thanh E.coli phân lập trên vịt bệnh được thu thập tại tỉnh Hậu Giang của Lê Thị Thùy Trang (2023), sự đa kháng kháng sinh của E.coli phổ biến nhất với kiểu hình Sm-Am-Bt.

Bảng 10. Đề kháng kháng sinh của E.coli phân lập trên vịt tại Trà Vinh (n=132)

Nguyễn Hà Vinh *, Lê Văn Đông2 và Hồ Thị Việt Thu3

1 Chi cục Chăn nuôi và Thú y Vĩnh Long.

2 Đại học Trà Vinh

3 Đại học Cần Thơ

* Tác giả để liên hệ: Nguyễn Hà Vinh, Chi cục Chăn nuôi và Thú y Vĩnh Long, 1ª Lưu Văn Liệt, P2, TP Vĩnh Long, Vĩnh Long. E-mail: vinhvl@gmail.com; ĐT: 0939504986

Bệnh Nhiễm Trùng Huyết Trên Vịt

BỆNH NHIỄM TRÙNG HUYẾT Ở VỊT (RIEMERELLOSIS) hay còn gọi là bệnh BẠI HUYẾT là tình trạng vi trùng xâm nhập vào máu à gây rối loạn đông máu, rối loạn tuần hoàn, hô hấp, viêm màng não mủ à đưa đến suy gan, suy thận và các nội tạng khác của cơ thể à và cuối cùng vịt chết nhanh chóng.MẦM BỆNH: Do vi khuẩn Riemerella anatipestifer (RA) Gram âm, thuộc họ Flavobacteriaceae gây ra. Ở trong nền chuồng và môi trường nước, vi khuẩn có thể sống 13-27 ngày. Vi khuẩn Riemerella anatipestifer có khoảng 21 serotype khác nhau và không có khả năng bảo hộ chéo. Đôi khi trong cùng một đàn vịt có thể nhiễm 1 hay nhiều serotype vi khuẩn khác nhau, vì vậy việc dùng vaccine nhiều khi không hiệu quả. Do đó khâu vệ sinh và sát trùng chuồng trại là rất quan trọng để phòng bệnh. Các thuốc sát trùng như , rất hiệu quả để tiêu diệt mầm bệnh này.LOÀI MẮC BỆNH: Ngoài vịt và ngỗng rất nhạy cảm với bệnh, các loài khác như ngan, gà tây, chim cút, thiên nga …cũng có thể bị bệnh này.LỨA TUỔI MẮC BỆNH Mọi lứa tuổi của vịt đều có thể mắc bệnh. Nhưng ở vịt con 1-8 tuần tuổi là dễ bị bệnh nhất. Thời gian ủ bệnh từ 2-5 ngày. Tỷ lệ chết khoảng 75%ĐƯỜNG LÂY BỆNH Bệnh được lây từ vịt bệnh sang vịt khỏe theo 3 cách:

Vi khuẩn xâm nhập qua lớp biểu mô của cơ quan hô hấp

Mầm bệnh có trong chất tiết của dịch mũi à làm vấy nhiễm vào thức ăn, nước uống à lây qua đường tiêu hóa

Vi khuẩn cũng có thể xâm nhập qua các vết trầy xước trên da đặc biệt là trên bàn chân

TRIỆU CHỨNG: Thường có một số con vịt bị chết độ ngột, vịt có các triệu chứng sau:

Dấu hiệu tiêu hóa: Vịt tiêu chảy, phân xanh xám (dấu hiệu đầu tiên)

Dấu hiệu hô hấp: Sốt, ủ rũ, chảy nước mắt, nước mũi, khó thở

Dấu hiệu thần kinh: Sưng phù đầu và cổ, ngoẹo cổ, đầu cổ bị run. Viêm khớp, mất điều hòa, vịt đi lại khó khăn. Dễ bị kích động, hai chân duỗi ra như bơi

Viêm ống dẫn trứng ở vịt đẻ (bên trong chứa nhiều dịch màu vàng)

BỆNH TÍCH Gan và lách sưng, gan bị tổn thương, viêm màng ngoài tim, viêm túi khí, viêm màng não, viêm vòi trứng, viêm sưng khớp, đôi khi bị mòn sụn khớp.

Những kháng sinh có thể điều trị được bệnh nhiễm trùng huyết bao gồm: Penicillin, Amoxycillin, Cephalosporins, Trimethoprim+Sulfamide, Florfenicol, Tetracycline, Quinolone (Marbofloxacin, Enrofloxacin…), Lincomycin

QUA ĐIỀU TRỊ THỰC TẾ CHO THẤY HIỆU QUẢ CAO NHẤT LÀ CÁC LOẠI THUỐC TIÊM NHƯ hoặc BIO-CEPTIOFUR hoặc BIO-TULACIN 100BIO-MARBO 50, đồng thời pha BIO SOL ADE-C vào nước cho vịt uống để tăng sức đề kháng, vịt sẽ mau khỏi bệnh.PHÒNG BỆNH

Quy Trình Xử Lý Bệnh E. Coli Trên Vịt

Vi khuẩn E.coli gây bệnh trên vịt chủ yếu do 2 chủng E.coli 02 và 078. Những chủng E.coli khác nhau sẽ gây bệnh và thể hiện những triệu chứng, bệnh tích khác nhau. Vi khuẩn E.coli xâm nhập qua vết thương ở đường hô hấp, tiêu hoá và có thể đi thẳng vào máu gây bại huyết làm cho vịt chết đột ngột mà chưa biểu hiện bệnh tích.

Vịt 3 – 15 ngày tuổi: Mẫn cảm nhất với bệnh. Biểu hiện của bệnh: Vịt bị rút cổ, lông xù, mắt lim dim, sổ mũi, khó thở, tiêu chảy phân loãng có màu trắng xanh rồi chết. Trước khi chết có triệu chứng thần kinh như: co giật, quay đầu, ngoẹo cổ… Tỷ lệ chết có thể đến 60%, những con sống sót thường còi cọc, chậm lớn và tiêu tốn thức ăn cao.

Vịt đẻ: Triệu chứng bại liệt do viêm khớp. Giảm đẻ, vỏ trứng có vết máu và phôi thường bị chết (trứng sát). Vịt đẻ chết rải rác.

Màng bao tim bị viêm trắng, đôi khi viêm dính vào cơ tim. Cơ tim có điểm xuất huyết lấm tấm. Gan sưng đen, có trường hợp cũng thấy xuất huyết chấm đỏ và túi mật căng to. Lách sưng có đốm trắng hoặc đỏ. Màng bụng viêm, có sợi fibrin dính vào xoang bụng và ruột. Túi khí viêm trắng và có chất nhầy màu vàng. Ống dẫn trứng viêm có dịch nhầy trắng, buồng trứng bị vỡ và teo lại.

Khu chăn nuôi: Tạo hàng rào cách ly khu vực chăn nuôi với môi trường bên ngoài, nhằm ngăn chặn người lạ, gà, vịt, chó, mèo, chuột… vào khu vực chăn nuôi.

Ngoài chuồng: Rắc vôi bột sung quanh chuồng nuôi và lối đi một lớp dày 1-2cm, rộng 1,5m tạo vành đai vôi bột nhằm loại trừ các nguyên nhân gây bệnh.

Tiểu khí hậu chuồng nuôi: Đảm bảo về mật độ nuôi, thông thoáng và đủ nhiệt độ.

Trong chuồng: Sát trùng định kỳ bằng Bestaquam-S liều 4-6ml/1lít nước, phun 2-3 lần/tuần.

Môi trường nước: Pha trộn với nước để xử lý liều 1kg/1000m 3 nước. Đặc biệt trong chăn nuôi vịt pha Ecotru cho uống là giải pháp hữu hiệu nhất có thể giảm tới 90% mùi khó chịu.

Dùng liều: 1g/10kg TT/ngày. Hoặc Macro-Mox Forte liều: 1g/15kg TT/ngày. Uống liên tục 3-5 ngày.

Canpho: Kích thích tạo khung xương, chống mổ cắn, mềm xương và tăng tỷ lệ đồng đều trộn 1ml/1kg thức ăn.

Amilyte: Kích thích tăng trọng, rút ngắn thời gian nuôi và nặng cân khi xuất bán trộn 1g/1-2kg thức ăn.

Soramin/Livercin: Tăng cường chức năng gan-thận và giải độc trộn 1ml/1-2kg thức ăn.

Zymepro: Kích thích tiêu hoá, giảm mùi hôi, giảm tiêu chảy và phân khô trộn 1g/1-2kg thức ăn.

Khu chăn nuôi: Tạo hàng rào cách ly khu vực chăn nuôi với môi trường bên ngoài, nhằm ngăn chặn người lạ, gà, vịt, chó, mèo, chuột… vào khu vực chăn nuôi.

Ngoài chuồng: Rắc vôi bột sung quanh chuồng nuôi và lối đi một lớp dày 1-2cm, rộng 1,5m tạo vành đai vôi bột nhằm loại trừ các nguyên nhân gây bệnh.

Tiểu khí hậu chuồng nuôi: Đảm bảo về mật độ nuôi, thông thoáng và đủ nhiệt độ.

Trong chuồng: Sát trùng định kỳ bằng Bestaquam- S liều 4-6ml/1lít nước, phun 2-3 lần/tuần.

Môi trường nước: Pha trộn với nước để xử lý liều 1kg/1000m 3 nước. Đặc biệt trong chăn nuôi vịt pha cho uống là giải pháp hữu hiệu nhất có thể giảm tới 90% mùi khó chịu.

Dùng Pulmusol liều: 1g/35kg TT/ngày. Hoặc Giuse OS 200 liều 1ml/15kg TT/ngày. Uống liên tục 3-5 ngày.

Thanh nhiệt, giải độc, chống nóng và tăng sức đề kháng: Bằng Oresol Plus+ pha 2-3g/1lít nước uống, dùng liên tục đến khi hồi phục hoàn toàn.

Giải độc gan – thận cấp: Bằng Productive Hepato pha 1ml/1-2lít nước uống, dùng liên tục đến khi hồi phục hoàn toàn.

Productive Forte: Kích thích miễn dịch, tăng sức đề kháng và kích thích tăng trọng pha 1ml/1-2lít nước uống.

Zymepro: Kích thích thèm ăn, tăng chuyển hóa và hấp thu thức ăn, pha 1g/1lít nước uống.

Cập nhật thông tin chi tiết về Hội Chứng Giảm Đẻ Trên Vịt (Byd) trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!