Bạn đang xem bài viết Chi Phí Đốt Điện Tim Điều Trị Hội Chứng Wolff được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Câu hỏi: Con tôi năm nay 18 tuổi, gần đây cháu thấy tim đập nhanh. Đi khám bác sỹ bảo con tôi bị Hội chứng Wolff-Parkinson-White và cần đốt điện tim. Cho tôi hỏi chi phí đốt điện đắt không? Các chuyên gia có thể cho con tôi và gia đình lời khuyên để kiểm soát bệnh không? Xin cảm ơn!
Trả lời:
Đốt điện tim là phương pháp hiệu quả để điều trị hội chứng Wolff-Parkinson-White (WPW). Hiện nay chi phí này không quá đắt mà được bảo hiểm y tế giúp chi trả 1 phần lớn nên gia đình bạn có thể yên tâm tiến hành.
Chi phí đốt điện tim điều trị hội chứng WPW không quá caoBình thường, nút xoang có nhiệm vụ phát xung điện, truyền tới nút nhĩ thất, sau đó truyền xuống buồng tim dưới nhưng khi mắc hội chứng WPW thì người bệnh xuất hiện thêm 1 đường dẫn truyền phụ. Đường này khiến cho thời gian truyền xung điện bị rút ngắn đi, làm cho tim đập nhanh hơn. Tùy vào từng người mà những cơn nhịp tim nhanh có thể xuất hiện hàng ngày, hoặc chỉ vài lần mỗi năm. Nếu không có triệu chứng thì không cần điều trị Nếu xuất hiện thường xuyên thì đốt điện tim là 1 trong những phương pháp điều trị bệnh hiệu quả. Chi phí đốt điện tim sẽ dao động trong khoảng 60 – 80 triệu giống như chi phí đốt điện tim do rối loạn nhịp tim, tùy thuộc vào cơ sở vật chất từng bệnh viện và ca can thiệp khó hay dễ. Tuy nhiên, hiện nay bảo hiểm y tế đã chi trả 1 phần lớn từ 80-100% tùy theo loại bảo hiểm của bạn và bạn có đi đúng tuyến hay không? Vì vậy, nếu con bạn có thẻ bảo hiểm thì số tiền phải bỏ ra sẽ ít hơn nhiều so với con số 60-80 triệu nên gia đình có thể yên tâm tiến hành
Cách kiểm soát Hội chứng Wolff-Parkinson-White không dùng thuốcCả trước và sau khi đốt điện tim, con của bạn cũng cần một số điều chỉnh trong lối sống hàng ngày, cũng như các bài tập đơn giản để ngăn chặn cơn rối loạn nhịp tim tái phát và duy trì hiệu quả trước đó, bao gồm:
– Nghiệm pháp Vagal: Hít vào 1 hơi thật sâu, bịt mũi, ngậm miệng và cố gắng thở ra. Bài tập này kích thích vào dây thần kinh phế vị và làm chậm lại các tín hiệu điện tim.
– Dùng thuốc: nếu nghiệm pháp vagal không có tác dụng thì con bạn cần dùng thuốc để ổn định nhịp tim, bạn cần nhắc con dùng thuốc đều đặn theo hướng dẫn của bác sỹ.
– Thay đổi lối sống: Tuyệt đối không uống rượu bia, các chất kích thích. Nên tập thể dục ở mức độ vừa phải như đạp xe, tập yoga, đi bộ, chạy bộ… sẽ giúp hạn chế các cơn nhịp tim nhanh trên thất tái phát.
– Sử dụng sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên để ổn định nhịp tim: Khổ Sâm đã được nghiên cứu có khả năng ổn định nhịp tim nhờ vai trò ổn định tín hiệu điện tim, ổn định tính dẫn truyền, kéo dài thời gian dẫn truyền nên sẽ giúp tình trạng tim đập nhanh mà con bạn đang gặp phải. Kết hợp với Đan Sâm, Hoàng Đằng sẽ giúp máu lưu thông qua tim dễ dàng hơn, giảm mệt mỏi, trống ngực. Con bạn nên dùng 4 viên 1 ngày chia 2 lần để đạt hiệu quả.
Chi phí đốt điện tim để điều trị hội chứng Wolff-Parkinson-White không quá tốn kém nếu có bảo hiểm. Vì vậy, gia đình bạn nên tiến hành can thiệp sớm để tránh những biến chứng sau này.
Chúc gia đình bạn sức khỏe!
Điều Chỉnh Người Trẻ Có Mẫu Điện Tâm Đồ Hội Chứng Wolff
1. Mở đầu
Khuyến cáo cho việc điều chỉnh các bệnh nhân có mẫu điện tâm đồ hội chứng WPW có triệu chứng đã được phổ cấp. Nhưng với người có mẫu điện tâm đồ (ECG) không có triệu chứng vẫn là một vấn đề.
1. Mở đầu
Khuyến cáo cho việc điều chỉnh các bệnh nhân có mẫu điện tâm đồ hội chứng WPW có triệu chứng đã được phổ cấp. Nhưng với người có mẫu điện tâm đồ (ECG) không có triệu chứng vẫn là một vấn đề. Do các vần đề về tầm soát, về lợi hại của can thiệp vần còn nhiều tranh cãi. Các ý kiến đồng thuận của các chuyên gia của Hội Nhịp tim Mỹ, Hội Nhịp tim châu Âu đã mở ra những khuyến cáo trong điều chỉnh các người trẻ có mẫu ECG WPW không triệu chứng. Tại Hội nghị Tim Mạch toàn quốc lần thứ 13 ở Hạ Long chúng tôi đã trình bày các quan điểm về vần đề này. Trong bài viết sau đây xin đề cập dựa trên các nghiên cứu đã được tiến hành và các ý kiến đồng thuận của các chuyên gia.
Trước khi đi vào vấn đề chúng tôi xin nhắc lại một số quy định trong các khuyến cáo.
A- Cấp độ khuyến cáo
– Class I: các điều kiện có bằng chứng hoặc và sự nhất trí chung cho các thủ thuật hoặc kế hoạch điều trị có lợi, hữu ích và có hiệu quả.
– Class II: các điều kiện có bằng chứng chống lại và hoặc không đồng thuận lựa chọn về sự hữu ích / hiệu quả của thủ thuật và điều trị
+ Class IIa: khối lượng các bằng chứng/ sự lựa chọn là ưu thế cho hữu ích và hiệu quả
+ Class IIb: hữu ích / hiệu quả ít hơn được tính toán bằng bằng chứng và lựa chọn
– Class III: các trạng thái có sự chống lại bằng chứng và hoặc nhất trí chung thủ thuật hoặc điều trị là không hữu ích và không có hiệu quả và một số ca còn có hại.
B- Mức độ bằng chứng
– Mức độ bằng chứng A: các tư liệu đưa ra từ nhiều nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiêu hoặc các phân tích gộp
– Mức độ bằng chứng B: tư liệu đưa ra từ một nghiên cứu ngẫu nhiên đơn thuần hoặc các nghiên cứu không ngẫu nhiên.
– Mức độ bằng chứng C: chỉ có sự lựa chọn đồng thuận của các chuyên gia, các nghiên cứu trường hợp, hoặc chuẩn chăm sóc (standard care).
– Mức độ chứng cứu D: sự lựa chọn của chuyên gia không có nghiên cứu.
Từ khi Wolff, Parkinson và White xuất bản bài cảnh báo vào năm 1930 người ta đã biết nhiều về giải phẫu, điện sinh lý và bệnh sử tự nhiên của các đường nối phụ biểu hiện dẫn truyền xuôi. Về kinh điển, các bệnh nhân có WPW được biểu hiện bằng hồi hộp hoặc muốn sỉu gây ra do nhịp nhanh chuyển động qua lại nhĩ thất, hoặc ít phổ biến hơn, nhịp nhanh nhĩ tiên phát. Dẫn truyền nhanh của rung nhĩ (AF) qua đường phụ đưa đến rung thất (VF) là hiếm nhưng thật đáng tiếc có thể lại là biểu hiện đầu tiên của hội chứng WPW, thậm chí ở người trẻ . Sự tiến bộ của trang thiết bị và kỹ thuật loại bỏ đường phụ bằng năng lượng radio qua catheter đã mang đến trị liệu hiệu quả cao cho WPW ở trẻ em.
Do sự hiểu biết đã tăng lên về đột tử không lượng trước được ở cộng đồng có chuyên môn và không có chuyên môn, nguy cơ thực sự nhưng nhỏ của đột tử bất thình lình ở người có WPW không triệu chứng và cả vần để đang tranh cãi về WPW không triệu chứng trong các năm gần đây.
2. Bệnh sử tự nhiên và thể hiện WPW
Phần lớn các bệnh nhân WPW có giải phẫu tim bình thường. Các đường phụ được cho là tàn dư của bào thai, như đã được chứng minh bằng chẩn đoán nhịp nhanh trên thất (SVT) trong tử cung và bằng tỷ lệ lớn hơn của WPW ở trẻ mới sinh và nhũ nhi. WPW cũng thể hiện ở các bệnh nhân có bệnh tim bẩm sinh cấu trúc (CHD) và bệnh cơ tim, phần lớn được ghi nhận ở bất thường Ebstein. Hiếm hơn, kích thất sớm có thể cùng tồn tại với các u tim hình que. Các đường phụ này thường được khám phá ở trẻ mới sinh, được kết hợp với các tumors khu trú ở đường rạch khía nhĩ thất (AV groove) hay vách, và khả năng do làm phá vỡ tình toàn vẹn về điện học của vòng nhĩ thất hơn là tồn tại các đường phụ thật sự. Bệnh cơ tim phì đại có thể kết hợp với WPW, thường trong trạng thái đột biến gene chuyên biệt.
Lo lằng nhất là biểu hiện không phổ biến của ngất hoăc ngừng tim đột ngột được cứu sống như là biểu hiện đầu tiên của hội chứng WPW. Cơ chế của đột tử ở các bệnh nhân WPW là dẫn truyền rất nhanh của cuồng nhĩ và rung nhĩ dẫn đến rung thất (VF). Mặc dù đa số các bệnh nhân WPW được cứu khỏi biến cố đột tử đã có triệu chứng từ trước đó, VF hoặc ngừng tim có thể là biến cố thường trực, đặc biệt ở trẻ em.
Bằng chứng sớm nhất của nguy cơ cao ở trẻ em không có triệu chứng đã thực sự còn bị coi nhẹ. Năm 1979, Llein và các cộng sự đã thông báo trên 25 bệnh nhân có WPW đã bị VF, tất cả đều là các bệnh nhân không có triệu chứng trước đó và đều là trẻ em, tuổi 8, 9 và 16 tuổi. Năm 1993, Russell và các cộng sử đã thông báo các biểu hiện nguy hiẻm đến tính mạng trong một nhóm 256 bệnh nhân có WPW. Trong số 60 trẻ em trong nghiên cứu, 6 (10%) có triệu chứng nguy hiểm tính mạng như là biểu hiện khởi đầu của bệnh nhân. Có 48% trong số 42 bệnh nhân nhi có WPW và ngừng tim, ngừng tim là triệu chứng đầu tiên. Năm 1996, Bromberg và cộng sự thông báo từ một nhóm 60 em nhỏ ≤ 18 tuổi có WPW đã trải qua các can thiệp ngoại khoa khác nhau, 2/10 bệnh nhân nguy cơ cao có ngừng tim VF được chứng minh bằng tư liệu như là một biểu hiện khởi đầu. Mặc dù không có nghiên cứu hồi cúu này tiếp sau một tập hợp các trẻ em không triệu chứng có WPW để theo dõi các biến cố, các tư liệu đã gợi mạnh mẽ tỷ lệ triệu chứng nguy hiểm tính mạng ở các trẻ em có mẫu ECG WPW không triệu chứng có thể là cao hơn nhiều so với người lớn. Điều này có thể do tất cả người lớn có mẫu ECG WPW không triệu chứng là trẻ em đã được sống sót xác định không có bất kỳ triệu chứng nào chứng minh nguy cơ thấp hơn.
Trong khi các nghiên cứu quần thể đã tiến hành các tính toán khác nhau của tỷ lệ loạn nhịp nguy hiểm đến tính mạng đưa đến tử vong đột ngột trong WPW, đa số các nghiên cứu đã thông báo tỷ lệ rất thấp SCD(bảng 1)
Tuổi tính bằng năm
SCD: đột tử tim. SVT: nhịp nhanh trên thất. VF: rung thất.
* Các bệnh nhân hỗn hợp có triệu chứng và không triệu chứng
3. Phân tầng nguy cơ trong WPW
Trong thực hành hiện nay mục đích (intent) của phân tầng nguy cơ ở các trẻ em với mẫu WPW không triệu chứng là nhận biết cá thể nào có nguy cơ cho loạn nhịp tim nguy hiểm.Hình thái đơn giản nhất, phân tầng nguy cơ sử dụng test không thâm nhập (nghĩa là Holter hoặc test gắng sức ) để xác địch mất thực sự kích thích sớm ở tần số tim sinh ly. Không có khả năng chứng minh rõ ràng mất tuyệt đối biểu hiện kích thích sớm biện hộ cho xem xét testing EP thâm nhập nhiều hơn. Trạng thái bắt buộc quyết định đối với VF là sự hiện diện của thời kỳ trơ chức năng đường xuôi ngắn (short antigrade functional refractory period) của đường dẫn phụ khi được phản ảnh trong khoảng RR ngắn nhất giữa các nhịp kích thích sớm trong AF. Testing EP thâm nhập cần bao gồm đo khoảng RR kích thích sớm ngắn nhất trong quá trình AF được tạo ra thêm vào khẳng định số và vị trí các đường phụ, các đặc tính dẫn truyền xuôi và ngược của đường phụ và nút AV, và cả thời gian trơ có hiệu quả củ đường phụ (accessory pathway effective refractory period: APERP) và của thất trong chiều dài chu kỳ phức tạp.
4. Lượng giá không thâm nhập các bệnh nhân WPW
Điện tâm đồ (ECG)
Sự có mặt các đường dẫn truyền phụ phức tạp đã được nhận biết như là một yếu tố nguy cơ cho rung thất. Sự xuất hiện hình thái học kích thích sớm khác biệt trên ECG hoặc trên ECG lưu động cung cấp nguy cơ cao hơn và các cá thể ít khả năng là không có triệu chứng. Khoảng 5 – 10% các bệnh nhân có mấu WPW có thẻ thể hiện nhịp nhanh kích thích sơm, cho phép hiểu đặc tính dẫn truyền xuôi của đường phụ.
Một loạt các ECG liên tục có thể được sử dụng để tầm soát các AF cơn, đặc biệt ở các bệnh nhân không có triệu chứng có mẫu WPW có thể không biết rõ loạn nhịp nhĩ ngắn. Sự xuất hiện AF cơn ở các bệnh nhân không có triêu chứng có WPW có thể phụ thuộc tần số của giám sát không thâm nhập. Trong nghiên cứu dự kiến 184 bệnh nhân nhi có mẫu WPW không triệu chứng theo dõi 5 năm, theo dõi Holter năm hai lần để nhận biết cơ AF ở 22 bệnh nhân (12%), cao hơn một cách có ý nghĩa so với phổ nhận định Holter ở các người lớn không có triệu chứng bị WPW.
Các thử bằng thuốc
Mặc dù không được sử dụng phổ biến nữa, các thuốc chẹn kênh sodium đã được sử dụng để xác định đặc tính của đường phụ. Gaita và các cộng sự thông báo trên 65 bệnh nhân có mẫu WPW, 15 trong đó không có triệu chứng. Các người được trải qua nghiên cứu EP, stress testing, và thử thách thuốc bằng procainamide và propafenone. Bloc đường phụ bằng thử thách thuốc đã kết hợp với APERP dài hơn trong EPs. Tuy nhiên, tính đặc trưng của mất đi kích thích sớm sau sử dụng các thuốc bloc sodium được so sánh yếu với các khoảng RR kích thích sớm ngắn nhất trong AF được tạo ra.
Test gắng sức
Mất đi kích thích sớm trong quá trình gắng sức đã được để nghị như là một phương pháp đại diện sự đánh giá thời kỳ trơ của đường phụ. Cách hoạt động của sóng delta trong quá trình gắng sức phụ thuộc vào các ảnh hưởng tương đối của kích thích giao cảm trên sự trơ đường phụ và dẫn truyền nút AV. Dẫn truyền nút AV nhanh hơn ở mức gắng sức cao hơn có thể che lấp kích thích sớm cố định qua đường phụ ở bệnh trái, thậm chí khi các manh mối tinh vi cho WPW được tìm kiếm. Daubert và các cộng sự đã chứng minh rằng chỉ có mất đột ngột và hoàn toàn kích thcíh sớm trong quá trình gắng sức mới khẳng định APERP đường xuôi kéo dài. Trong một nghiên cứu dự kiến chiếm ưu thế ở người lớn, sự dai dẳng của kích thích sớm trong quá trình gắng sức chỉ ra sự nhậy cảm 96% nhưng sự đặc hiệu chri 17% trong dự hoặc SPERRI ở AF ≤ 250 ms hoặc APERP ≤ 250 ms. Giá trị dự báo dương là 40% và dự báo âm là 88%. Đã được ghi nhận, kích thích sớm đã biến mất một cách đột ngột trong gắng sức chỉ 1/24 bệnh nhân có SPERR / ERP ≤ 250 ms, và đây là bệnh nhân có SPERRI ngắn nhất (180ms) trong một loạt bệnh nhân.
5. Lý do căn bản, định nghĩa, các kỹ thuật cho nghiên cứu điện sinh lý can thiệp.
Đối với tư liệu này, EPs sẽ được xác định như “thâm nhập” khi nó được thực hiện sử dụng hoặc catheter trong buồng tim hoặc qua thực quản. Protocols cho cả hai trong buồng tim và qua thực quản đã được mô tả rõ, các đặc tính xuôi của đường dẫn phụ tương quan rất rõ với cả hai phương pháp. Tuy nhiên, tạo nhịp qua thực quản hiệu quả ít hơn cho khả năng để nhận rõ các đường dẫn truyền phụ phức tạp, lượng giá dẫn truyền ngược, và khu vực chính xác của đường phụ, và cẩn thiết đòi hỏi đặt catheter trong buồng tim nếu loại bỏ được thực hiện trng thủ thuật tương tự. Tuy nhiên, hai kỹ thuật này sử dụng phương pháp tương tự để xác định khả năng tạo ra nhịp nhanh lập lại tại nhĩ thất, AF, xác định APERP, dẫn truyền kích thích sớm 1:1 của nhịp tạo nhịp nhĩ, SPERRI trong AF đực tạo ra, và sử dụng Isoproterenol. Isoproterenol gây ra hầu như là như nhau trong việc làm ngắn lại của thời kỳ trơ dẫn xuôi của đường phụ và tăng lên tần số thất trong quá trình tạo nhịp nhĩ và rung nhĩ. Do hiệu quả này và thực sự giá trị của isoproterenol trong phân tầng nguy cơ không được xác định rõ ràng từ nghiên cứu tương lai, bóng dáng nguy cơ được xác định thông thường ở đường giới hạn. AF dai dẳng hoặc nhịp nhanh lập lại nhĩ thất (AV) được xác định như là nhịp nhanh kéo dài hơn 1 phút; tuy nhiên, sự tranh luận còn tồn tại như khoảng thời gian của nhịp nhanh được tạo ra được xem xét là bệnh ly, thay đổi giữa 30 s và 5 phút.
6. Phân tầng nguy cơ điện sinh lý của WPW
6.1. Các bệnh nhân có triệu chứng
Trong các nghiên cứu lâm sàng ở các bệnh nhân người lớn WPW, SPERRI ≤ 220 ms – 250 ms trong quá trình rung nhĩ đã được nhận thấy là sự loại bỏ tốt nhât những bệnh nhân đó ở nguy cơ AF. Trên các cơ sở nghiên cứu trẻ em và người lớn hỗn hợp (phạm vi tuổi từ 5 đến 68 tuổi, trung bình 28 tuổi ), APERP là ít hữu ích hơn do nó ít dự báo biến cố nguy hiểm tính mạng (phạm vi 180 – 310 ms) so với SPERRI trong AF là như nhau giữa các bệnh nhân WPW và VF và những bệnh nhân WPW và SVT vào lại nhĩ thất, nhưng không có VF. Ở các bệnh nhân có triệu chứng, sự biểu hiện các đường dẫn truyền phức tạp và các bó nối tắt ở vách có thể là yếu tố nguy cơ riêng rẽ cho sự phát triển VF. Các đường dẫn phụ phức tạp có thể cũng là để xác định sự nhạy cảm đối với sự độc lập của thoái hóa đưa đến VF của AF.
Độ nhạy cảm của SPERRI trong AF là 88% đến 100% cho nhận biết người lớn có triệu chứng ở nguy cơ cho VF nhưng do tỷ lệ thấp của ngừng tim ở các bệnh nhân này, giá trị tiên đoán dương của SPERRI < 220 ms ở người lớn chỉ là 19% – 38%. Giá trị dự báo dương thấp ở người lớn, đặc biệt những người trên 40 tuổi, đã được sử dụng để đưa ra lý lẽ chống lại (to argue against) sự dụng phổ biến EPs thâm nhập để nhận biết quần thể nguy cơ.
Bromberg và các cộng sự đã lượng giá các trẻ em WPW có triệu chứng ≤ 18 tuổi và các bệnh nhân được phân nhóm vòa các bệnh nhân có VF được chứng minh bằng tư liệu, ngất hoặc AF tự phát, SVT vào lại đơn thuần. Tất cả các bệnh nhân có VF hoặc vô tâm thu trên lâm sàng ở các bệnh nhân có AF được tạo ra bằng EPs có SPERRI < 220 ms (độ nhạy cảm 100%) so với SPERRI < 220 ms ở 74% và 35% ở các nhóm khác. Nghiên cứu này gợi ý SPERRI < 220 ms đã mang lại tăng lên 3 lần nguy cơ SCD so sánh với quần thể WPW chung. Paul và cộng sự thực hiện nghiên cứu EPs thâm nhập ở 74 trẻ em WPW có triệu chứng. Tạo ra AF dai dẳng ghi nhận ở 9 / 14 bệnh nhân có ngất nhưng không có bệnh nhân trong số 60 bệnh nhân không có ngất. Tất cả các bệnh nhân ngất và AF có SPERRI ≤ 220 ms (độ nhậy cảm 100%). Trong số 34 bệnh nhân không có ngất nhưng AF tạm thời được tạo ra, 9 bệnh nhân có SPERRI ≤ 220 ms (độ đặc hiệu 74%). Chú ý ngất được quy cho WPW được đảm bảo là thật bởi vì ngất do cường phế vị rất thường gặp và không hiếm là nguyên nhân ngất ở các bệnh nhân này.
Ở trẻ em, APERP như là một biến số đồng nhất trong số giá trị tiên lượng nhỏ cho nguy cơ ngất, AF hoặc SVT và có tương quan ít rõ ràng hơn với VF so với SPERRI trong AF. Trong khi các đặc tính EP của đường phụ có thể thay đổi theo thời gian, trong đó các bệnh nhân có APERP (< 260 ms) kéo dài đáng kể để thay đổi nguy cơ tiềm tàng theo thời gian là hiếm. Cuối cùng, Teo đã thông báo sự hiện diện của các đường dẫn phụ phức tạp cùng chung với (in conjunction with) SPERRI < 250 ms đạt được độ đặc hiệu 92% và giá trị dự báo dương cho các biến cố loạn nhịp trong tương lai ở 22%.
6.2. Các bệnh nhân không triệu chứng
Mục đích của lượng giá EP thâm nhập các bệnh nhân WPW không triệu chứng được chẩn đoán bằng ECG để nhận biết nguy cơ tăng lên cho SCD. Tương quan các triệu chứng với các chỉ số EP đã thay đổi giữa các nghiên cứu. Santinelli và các cộng sự đã quan sát tuổi trẻ hơn, thời gian trơ ngắn hơn của đường phụ, và các đường phụ phức tạp được tương quan với các triệu chứng lâm sàng, trong khi Dubin và các cộng sự xác nhận thời gian trơ ngắn hơn và sự hiện diện của các đường phụ phức tạp không được liên hệ với các triệu chứng lâm sàng. Tương tự, các triệu chứng đã được chỉ ra là tương tự ở các trẻ em WPW và AF có thể được tạo ra và các người không có tình trạng dễ bị tổn thương ở nhĩ.
Khẳng định các nhận định này, Delise và cộng sự so sánh các bệnh nhân người lớn trẻ có mẫu WPW không có triệu chứng và có triệu chứng bằng kích thích nội tâm mạc và quan sát thấy tỷ lệ của AF và SPERI < 250 ms là không khác biệt giữa hai nhóm; tuy nhiên, dẫn truyền ngược của đường phụ có tỷ lệ nhiều hơn một cách có y nghĩa ở các bệnh nhân có triệu chứng (100% đối lại 22%).
Có 3 nghiên cứu về trị liệu WPW và nguy cơ đột tử đã được đưa ra do một nhóm đơn thuần các nhà nghiên cứu ở Milan, Italy. Nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu tương lai của 212 bệnh nhân người lớn bị WPW không có triệu chứng trong đó có 33 bệnh nhân trở nên có triệu chứng qua giai đoạn 5. Các bệnh nhân đó có APERP ngắn hơn giới hạn (246 đối lại 283 ms) và trong quá trình truyền isoproterenol (203 đối lại 225 ms). Phối hợp APERP ngắn và khả năng thúc đẩy SVT đã có giá trị dự báo dương là 47% với dự báo âm là 97% bằng (in regard) các biến cố loạn nhịp tiếp sau (subsequent) (thường nhất, xuất hiện SVT). Có 3 bệnh nhân khởi đầu không có triệu chứng với APERP < 250 ms và SPERRI < 230 ms người đã phát triển tiếp theo VF.
Trong nghiên cứu ở người Milan thứ 2, tư liệu lâm sàng và EP can thiệp đã được lựa chọn từ 184 trẻ em có WPW không triệu chứng có thời gian theo dõi trung bình là 5 năm. So sánh với những người còn lại không có triệu chứng, 51 bệnh nhân sau này trở nên có triệu chứng lâm sàng đã được quan sát đã có các chỉ số EP khác biệt có y nghĩa, bao gồm APERP ≤ 240 ms (89% đối lại 17%), các đường phụ phức tạp (47% đối lại 6,0%) và chu kỳ SVT vào lại AV không thay đổi (84% đối lại 23%). Ba bệnh nhân đã trải qua VF, nhưng tất cả 3 bệnh nhân đã được cứu sống thành công không có hậu quả thần kính. Thú vị thay, tất cả 3 trẻ đã được chứng minh bằng tư liệu AF được kích thích sớm có đáp thất nhanh đã đưa đến thương tổn tạo ra VF ngay trước (1 bệnh nhân) hoặc lúc nhập viện (2 bệnh nhân). Tất cả 3 bệnh nhân có đặc tính đường phụ nguy cơ cao trong EPs khởi đầu (APERP < 220 ms và SPERRI < 200 ms), và tất cả loại bỏ thành công tiếp sau đó. Trong lượng giá APERP xuôi ≤ 240 ms cho đánh giá nguy cơ cho VF có độ nhạy cảm tuyệt vời (100%) và dự báo âm, nhưng độ đặc hiệu thấp (25%) và giá trị dự báo dương trong khảng định vai trò của nó trong nhận biết các bệnh nhân ở nguy cơ thấp cho VF. Quần thể nghiên cứu này là đáng chú ý cho tần số cao của các biến cố lâm sàng lớn so sánh với các nghiên cứu ở quần thể WPW lớn hơn khác ở người lớn.
Trong nghiên cứu lâm sàng tương lai riêng rẽ, 47 trẻ em có mẫu WPW không triệu chứng ở nguy cơ cao cho loạn nhịp (AF có thể bị thúc đẩy hoặc SVT) đã được ngẫu nhiên loại bỏ hoặc theo dõi. Trong suốt 3 năm theo dõi, 7 trẻ em phát triển triệu chứng, 2 có AF đáp ứng thất nhanh. Năm người khác được quan sát có AF im lặng khi theo dõi ECG liên tục và một chế đột ngột, lời nhận xét quan trọng đầy tiêm năng. Các đường dẫn truyền phụ phức tạp đã mang đến nguy cơ cao cho loạn nhịp phát triển. Điều giá trị (worth) được ghi nhận trong mỗi một nghiên cứu này , tần số biến cố nguy hiểm đến tính mạng là cao hơn một cách căn bản so với phân tích gộp theo sau 749 người lớn cho toàn bộ 6726 năm không có bất kỳ ca SCD.
Sử dụng lượng giá thâm nhập đường phụ ở các trẻ em WPW không triệu chứng có kích thích sớm kéo dài cố định vượt qua năm học cơ bản và bộc lộ kích thích sớm cố định ở tần số tim cao hơn, 25% có thể có thời kỳ trơ của đường ngắn thậm chí không thấy nhịp nhanh lặp lại được tạo ra trong quá trình EPs. Sarubbi và cộng sự theo dõi 98 trẻ em có mẫu WPW không triệu chứng qua 4 năm, SVT được tạo ra ở 48% các bệnh nhân ở ngay khởi đầu EPs, nhưng theo dõi chỉ có 5 bệnh nhân được phát triển thành SVT (4SVT, 1AF). Chiều dài vòng tạo nhịp nhĩ tối thiểu với kích thích sớm dai dẳng là ngắn hơn ở trẻ em có trở thành triệu chứng ngay tiếp sau (236 ms) hơn những người không có (276 ms), nhận định này phù hợp với các nghiên cứu người lớn đã được đề cập trước đây. Một bệnh nhân không có triệu chứng trước đó cha mẹ của bệnh nhân này đã từ chối điều trị theo khuyến cáo cho các chỉ số EP xuôi nhanh đã đột tử ở 8 tuổi. Không có khả năng tạo ra SVT đưa đến tiên lượng tốt bất kể đặc tính đường phụ dẫn xuôi.
Để tóm tắt các tư liệu cho giá trị của test EP can thiệp nhận biết nguy cơ ở các bệnh nhân WPW có triệu chứng, độ nhận cảm và giá trị dự báo âm của SPERRI ≤ 250 ms là cao, nhưng giá trị dự báo đặc hiệu và dương lại thấp hơn một cách đáng kể. Hơn nữa, ở trẻ em và người lớn không có triệu chứng, giá trị dự báo đặc hiệu và dương thậm chí thấp hơn do tỷ lệ đột tử tiếp sau là quá thấp (bảng 2). Mặc dù isoproterenol tăng lên một cách rõ ràng độ nhạy cảm cho các biến cố ở các bệnh nhân không có triệu chứng bằng đưa đến nhiều bệnh nhân hơn trong loại nguy cơ cao, nó giảm đi đáng kể độ đặc hiệu của test EP xâm lấn. Các quan sát này áp dụng cho cả người lớn và trẻ em; tuy nhiên, có các tư liệu bệnh sử tự nhiên ít hơn ở trẻ em, và giá trị tiên lượng cứ sự thêm vào của isoproterenol cho phân tầng nguy cơ không được nghiên cứu phù hợp ở bất kỳ nhóm nào.
Bảng 2. Các chỉ số điện sinh lý thâm nhập ở người lớn trẻ và trẻ em không triệu chứng có mẫu WPW.
AF = atrial fibrillation; APERP = accessory pathway effective refractory period; EP = electrophysiology; NPV =negative predictive value; PPV = positive predictive value;
6.3. Các nguy cơ EPs thâm nhập
7. Loại bỏ qua catheter: tần số thành công, nguy cơ và các xem xét khác
Khí được sử dụng lần đầu tiên cho WPW ở nhi khoa năm 1990, loại bỏ bằng năng lượng tần số radio (RFA) đã được xác định khả năng cho điều trị loạn nhịp mà trước đây chỉ với thuốc, loại bỏ bằng dòng một chiều (DC ablation), hoặc ngoại khoa. Ngay nay RFA được chấp nhận rộng rãi như là một trị liệu cho WPW và thường xem xét là trị liệu hàng đầu. Điều này là do tần số thành công cao và tiền sử nguy cơ thấp, đặc biệt khi sử dụng loại bỏ bằng đông lạnh (cryoablation) được bao gồm cho đường phụ vách liên thất và sát động mạch vành nhỏ. Tần số thành công, nguy cơ và các xem xét cách sinh hoạt khác bao gồm các điều trị có khả năng cho các bệnh mạn tính, là các vần đề quan trọng khi quyết định bệnh nhân đặc biệt có tham gia vào trị liệu loại bỏ bằng catheter hay không. Sự hiểu biết hoàn chỉnh của trạng thái hiện nay của trị liệu loại bỏ qua catheter là phê phán khuyến cáo thủ thuật này cho gia đình bệnh nhân nhi có hội chứng WPW không triệu chứng.
7.1. Hiệu quả của loại bỏ qua catheter
Một thời gian ngắn sau thủ thuật RFA đầu tiên, các thành viên của hội điện sinh ly nhi khoa đã tính toán đăng ky loại bỏ RF nhi. Đăng ky đã cung cấp sự nhìn nhân thấu đáo có valuable giá trị lớn đối với tiến triển của trị liệu catheter ablation và được thúc đẩy đánh giá nghiên cứu tiềm năng của loại bỏ bằng catheter ở nhi khoa (Prospective Assessment of Pediatric Cardiac Ablation study : PAPCA).
Trong nghiên cứu PAPCA tiếp theo, tất cả tần số thành công của nghiên cứu nền được ablation là 95,7%, với tần số thành công 93% cho các đường phụ được biểu hiện. Tất số tât cả tái phát trong 1 năm theo dõi được thông báo trong nghiên cứu tương lai đã là 10,7%, triển vọng hơn tần số đã được thông báo trước kia. Đa số tái phát xuất hiện trong quá trình 2 tháng đầu sau thủ thuật. Tần số tái phát cho các đường phụ biểu hiện là 11,3%, với tần số tái phát thấp nhất cho đường phụ vách trái và bên trái và cao nhất cho bên phải và vách. Các kết quả tương tự của RFA đã được thông báo mới đây (2007) trong quần thể hỗn hợp ngưởi lớn và nhi 508 bệnh nhân có đường phụ. Tần số thành công cấp thời là 94,9% qua tất cả các vị trí (cao nhất ở vách tự do trái, giữa vách, và khi vực thành tự do phải). Các đường phụ trước vách phải được loại bỏ thành công 78,5% trong thời gian. Mặc dù, thành công cấp thời RFA hợp lý qua tất cả các khu vực, dẫn truyền qua đường phụ tái phát được quan sát là 24,2%, 16,7%, 14,3%, 13%, và 5% cho các đường phụ ở thành tự do phải, giữa vách, trước vách, vách sau và thành tự do trái (97%).
Một số nghiên cứu từ các trung tâm nhi khoa riêng biệt đã thông báo tần số thành công cho loại bỏ WPW. Tần số thành công cấp thời 92 đến 100% và tái phát 0 đến 13% đã được thông báo trong các nghiên cứu nhỏ này. Các yếu tố nhận định như là sự bổ xung sự mất đi thành công lâu dài gồm sự hiện diện bệnh tim cấu trúc và có nhiều đường phụ. Các kết quả RFA ở bệnh nhân nhi có WPW chưa từng được phân biệt giữa có triệu chứng và không triệu chứng.
Hậu quả loại bỏ ở trẻ em rất trẻ
SVT do WPW ở trẻ ẵm ngửa có thể thường được điều chỉnh bằng thuốc và xu hướng trở nên it hơn sau vài tháng của đời sống. Tuy nhiên, có tồn tại phân nhóm trẻ trơ với thuốc loạn nhịp, các nền phức tạp (các đường phụ phức tạp và hoặc bệnh tim bẩm sinh), và các triệu chứng nặng có thể có lợi ích từ loại bỏ. Các nghiên cứu tử đăng ky đã gợi ý tần số loại bỏ thành công có khả năng tương tự với trẻ lớn hơn, nhưng tần số biến cố nguy hại có thể cao hơn. Blaufox và cộng sự không nhận thấy bất kỳ sự khác biệt có y nghĩa nào giữa bệnh nhân ít hơn hoặc lớn hơn 18 tháng khi phân tích các số liệu đăng ký. Nhưng trải nghiệm còn hạn chế và thay đổi, các chỉ định cho loại bỏ (ablation) có trái ngược nhiều ở trẻ ẵm ngửa và trẻ nhỏ, và các mẫu ECG WPW không triệu chứng thường không được xem xét là chỉ định cho phân tầng nguy cơ hoặc loại bỏ.
7.2. Loại bỏ bằng đông lạnh(Cryoablation)
7.3. Nguy cơ và biến chứng
Các biến cố có hại nặng đã bổ xung vào loại bỏ qua catheter là blốc nhĩ thất (bloc AV), thủng tim, tổn thương động mạch vành và biến cố tắc mạch. Các nghiên cứu đăng ký sớm được thông báo tần số tất cả biến chứng 3.2% sử dụng khái niệm rất giới hạn các biến cố có hại, trong đó được gom lại thành các biến cố lớn và nhỏ. Blốc nhĩ thất độ 2 và 3 xuất hiện ở 0.7% và hình thành các thrombus hoặc biến cố tắc mạch huyết khối xuất hiện ở 0.3%. Nghiên cứu PAPCA thông báo tần số biến chứng 4.0% (trên cơ sở nghiên cứu EP và RFA) và không bao gồm tử vong. Bloc nhánh phải được thông báo là 0.5%, LBBB là 0.1% và hở van tim 0.3%. Hematoma ở vị trí vào của catheter là biến cố chúng nhất (1.4%). Blốc nhĩ thất xuất hiện ở 0.9% bệnh nhân có đường phụ hiện, nhưng chỉ ở bệnh nhân có đường phụ ở vách trái và phải.
Có thể có yếu tố độc lập thời gian xem như là sự phát hiện lâm sàng hẹp động mạch vành sau RFA. Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra ảnh hưởng động mạch vành cả hai sớm và muộn sau RFA. Thành phần viên của tổ chức tổn thương gây ra do năng lượng RF đã được chỉ ra các lớp xâm lấn của động mạch vành phải, đưa đến hẹp cấp thời khi năng lượng RF được áp dụng đối với mặt vòng ba lá bên động mạch ở lợn. Mưng mủ tiếp theo của tổn thương này có thể gây ra hẹp có ý nghĩa. Tỷ lệ cao nhất của tổn thương mạch vành đã được thông báo ở bệnh nhân có CHD, đặc biết Ebstein bất thường van 3 lá. Một trung tâm thông báo tỷ lệ nhận biét tương lai của tổn thương mạch vành 1,7% (2/117) ở bệnh nhân có tim bình thường cấu trúc và đường phụ sau vách. Các thông báo hẹp động mạch vành đã được nhận biết sau RFA chụp mạch vành. Trừ khi tổn thương động mạch vành được yêu cầu hoạt hóa, nó có thể không được chẩn đoán và không được thông báo. Các trẻ em nhỏ hơn có thể là nguy cơ đặc biệt cho tổn thương động mạch vành, do khoảng cách từ vị trí ablation nội tâm mạc cũng thay đổi ở bệnh nhân trẻ và được sử chữa cho khi vực đường phụ.
Tử vong đã được thông báo như là biến chứng RFA ở trẻ em do thủng tim, chân thương cơ tim, mạch vành hoặc thuyên tắc mạch não và loạn nhịp thất. Tỷ lệ toàn bộ được thông báo trong thủ thuật nghiên cứu lớn (7600 can thiệp) bệnh nhân nhi bằng đăng ký là 0.22%. Tỷ lệ là 0.12% ở trẻ em giữa tuổi 0.1 đến 13,3 tuổi với tim cấu trúc bình thường, bệnh nhân nhỏ hơn, những người nhận được số năng lượng RFA lớn hơn và trải qua can thiệp ở bên trái.
8. Các vấn đề đặc biệt
8.1. WPW và bệnh tim bẩm sinh
Một số nhỏ các tư liệu thâm nhập có khả năng trong WPW và CHD là đầu tiên từ các bệnh nhân có bất thường Ebstein. Đa số các đường phụ ở bệnh này ở bên phải, và nhiều bệnh nhân có nhiều đường. Trong nghiên cứu hồi cứu so sánh các bệnh nhân WPW có hoặc không có bất thương Ebstein , người có bất thường Ebstein có chiều dài vòng vào lại nhĩ thất dài hơn đáng kể (359 ms đối lại 310 ms), nhưng không có sự khác biệt được nhận thấy ở các phức hợp được kích thích sớm ngắn nhất trong quá trình AF (215 đối lại 218ms). Các tư liệu sớm (1998) từ nghiên cứu Đăng ký RFA nhi khoa của 65 bệnh nhân bị bất thường Ebstein trải qua RFA đã thông báo tần số thành công cấp thời và tần số tái phát cho thành tự do phải, vách phải và các khu vực khác là 79%/32%, 89%/29%, và 75%/27%. Các đường phức tạp được quan sát ở 49% các bệnh nhân và tỷ lệ phần trăm tương đối lớn (22%) đã được loại bỏ cho các loạn nhịp nguy hiểm.
Thêm vào các khiếm khuyết tim bẩm sinh cấu trúc, kích thích thất sớm cũng đã được mô tả ở bệnh nhân bệnh cơ tim. Vài gene đột biến đã được kết hợp với kích thích thất sớm, gồm PRKAG2 và AMPK. Đa số các bệnh cơ tim này xuất hiện là phì đại và tiến triển nhưng ngược lại với sự xáo trộn cơ tim truyền thống được nhận thấy trong protein sarcomeric các bất thường cơ tim phì đại, sự phì đại kết hợp với kích thích sớm thất đưa đến thứ phát đối với tích lũy nội tế bào glycogen, như trong trường hợp AMPR, amylopectin. Nó không hoàn toàn rõ ràng kích thích sớm nhận thấy trong đột biến PRKAG2 và AMPK qua trung gian đường phụ hay không, nhưng loạn nhịp thường có và cả gồm rối loạn chứng năng nút xoang, AF, dẫn truyền nút nhĩ thất gia tăng và blốc nhĩ thất. Đột tử được mô tả rõ ở quần thể bệnh nhân này, nhưng tương quan của đột tử với kích thích thất sớm là tương tự không rõ ràng.
8.2. WPW không triệu chứng và rối loạn chú ý – thiếu hụt / tăng động
Các thuốc ADHD làm tăng tần số tim trung bình từ 1 đến 2 nhịp / phút và huyết áp tâm thu 3 đến 4 mm Hg. Mặc dù ý nghĩa thống kê, các liên can lâm sàng của các thay đổi này trong tần số tim và huyết áp là tối thiểu ở phần lớn các bệnh nhân, trong khi sẽ có vài người có các thay đổi lớn hơn có thể cần được quan tâm. Trong nghiên cứu 584 trẻ em trên Adderall XR, không có thay đổi lâm sàng có ý nghĩa trong các chỉ số ECG trung bình được quan sát trong khoảng thời gian nghiên cứu. Xa hơn, ở tất cả các ca có biểu hiện các bất thường, các nhà tim mạch học nhi khoa nhận định đã được cho là vô hại, không có ý nghĩa lâm sàng, hoặc bình thường (145). Mặc dù số các ca thông báo đột tử ở các bệnh nhân nhận được thuốc ADHD và bất thường tim cấu trúc hoặc bệnh sử gia đình có loạn nhịp thất được xác định bằng FDA, không có thông báo đặc biết SCD ở các bệnh nhân WPW nhận được thuốc ADHD.
8.3. WPW và tham gia thể thao
Hội chứng WPW đã giải thích khoảng 1% tử vong trong nghiên cứu dài hạn đột tử ở vận động viên. Tuy nhiên, nó không được biết đây là các cá thể không triệu chứng bằng xác định hay không. Trong khi nhiều trường hợp SCD có WPW có kết hợp với gắng sức tập luyện không làm thay đổi các tính chất điện sinh lý trong WPW. Trên cơ sở Hội nghị Bethesda lần thứ 36, phân tầng nguy cơ với nghiên cứu EP là thích hợp ở các vận động viên không có triệu chứng đăng ký thi đấu thể thảo từ trung bình đến cao. Đây là sự tương phản đối với tuyên bố mạnh mẽ hơn từ ESC, đã chỉ thỉ cho tất cả các vận động viên có WPW phải trải qua đánh giá nguy cơ gồm EPs. Đánh gía khái quát nguy cơ ở các vận động viên này gồm SPERRI < 240 ms trong AF hoặc < 220 ms trong quá trình stress hoặc isoproterenol, sự hiện diện của đa đường dẫn phụ hoặc AF được thúc đẩy dễ dàng. Trong khi loại bó bằng tần số radio qua catheter thường được khuyến cáo ở các vận động viên không triệu chứng có WPW, đối với các cá thể đó từ chối loại bỏ bằng tần số radio, thi đấu thể thao có thể được phép nếu không có yếu tố nguy cơ EP đã nêu trên. Trong khi có sự khác biệt hiện thời giữa các khuyến cáo của ACC và ESC trong điều chỉnh các vận động viên có mẫu ECG WPW không triệu chứng, khám phá kích thích thất sớm ở vị thành niên bất kể trạng thái vận động viên, nên cố gắng đưa đến chuyên viên với các chuyên gia điện sinh lý nhi khoa để khởi đầu tiến trình phân tầng nguy cơ như là chi tiết trong tư liệu này.
9. Các khuyến cáo cho các bệnh nhân trẻ (8-21 tuổi) có mẫu ECG WPW
1. Test gắng sức, khi trẻ đủ lớn để có thể thực hiện, là một phẩn của lượng giá nếu ECG liên tục có biểu hiện kích thích sớm liên tục (class IIA, Mức độ chứng cứ B/C). Ở các bệnh nhân có mất đột ngột và hoàn toàn kích thích sớm ở tần số tim sinh lý, đặc tính của đường phụ có thể hiện nguy cơ thấp hơn cho SD. Ở trẻ em có kích thích sớm khó thấy trên ECG và test gắng sức có thể khó giải thích.
2. Sử dụng phân tấng nguy cơ thâm nhập (đường thực quản hoặc trong buồng tim) để đánh giá khoảng RR kích thích sớm ngắn nhất trong rung nhĩ là phù hợp ở người test không thâm nhập không chứng minh sự mất kích thích sớm đột ngột và hoàn toàn (class IIA, mức độ chứng cứ B/C).
3. Các bệnh nhân trẻ có SPERI ≤ 250 ms trong AF ở nguy cơ cao cho SCD. Các bệnh nhân này phù hợp xem xét loại bỏ bằng năng lượng radio qua catheter ở nhóm này, đưa đến một số lượng các yếu tố nguy cơ thủ thuật trên cơ sở các khu vực giải phẫu của đường phụ(class IIA, mức độ chứng cứ B/C)
5. Các bệnh nhân trẻ ở nguy cơ thấp có thể phát triển tiếp theo triệu chứng tim mạch như ngất hoặc hồi hộp. Các bệnh nhân này sau đó cần được xem xét triệu chứng và có thể thích hợp loại bỏ bằng năng lượng radio qua catheter bất chấp đánh giá trước đó.
6. Các bệnh nhân có mẫu ECG WPW không triệu chứng và bệnh tim cấu trúc ở nguy cơ cho cả hai nhịp nhanh nhĩ và nhịp nhanh lập lại nhĩ thất có thể gây ra huyết động không có triển vọng tốt. Loại bỏ bằng năng lượng radio qua catheter có thể được xem xét bất kể đặc tính xuôi của đường phụ (Class IIB, mức độ chứng cứ C).
7. Các bệnh nhân không triệu chứng có mẫu ECG WPW và rối loạn chức năng thất thứ phất do co bóp không đồng bộ có thể được xem xét loại bỏ bằng năng lượng radio qua catheter, bất kể đặc tính đường xuôi của bó nối tắt (Class IIB, mức độ chứng cứ C)
8. Các bệnh nhân có mẫu ECG WPW không có triệu chứng có thể được kể đơn thuốc ADHD. Khuyến cáo này theo hướng dẫn của AHA nói rõ các thuốc ADHD có thể được sử dụng trong trạng thái này sau khi lượng giá tim và với sự theo dõi theo định kỳ và sự giám sát của các nhà tim mạch học nhi khoa.
*Bệnh nhân không có khả năng thực hiện gắng sức cần thực hiện phân tầng nguy cơ bằng EPs.
*Trước khi test thâm nhập và cha mẹ / giám hộ cần được được hướng dẫn để thảo luân về nguy cơ và lợi ích trước khi nghiên cứu thâm nhập, chỉ các nguy cơ quan sát, và cả các nguy cơ chiến lược thuốc.
Tài liệu tham khảo 1. Wolff LPJ, White PD.Bundle-branch block with short PR interval in healthy young people to paroxysmal tachycardia. Am Heart J 1930;6:685-704. 2. Montoya PT, Brugada P, Smeets J, Talajic M, Della Bella P, Lezaun R, vd Dool A, Wellens HJ, Bayes de Luna A, Oter r, et al. Ventricular fibrillation in the Wolff-Parkinson-White syndrome. Eur Heart J 1991;12:144-150. 3. Timmermans C, Smeets JL, Rodriguez LM, Vrouchos G, van den Dool A, Wellens HJ. Aborted sudden death in the Wolff-Parkinson-White syndrome. Am J Cardiol 1995;76:492-494. 4. Klein GJ, Bashore TM, Sellers TD, Pritchett EL, Smith WM, Gallagher JJ. Ventricular fibrillation in the Wolff-Parkinson-White syndrome. N Engl J Med 1979;301:1080-1085. 5. Friedman RA, Walsh EP, Silka MJ, Calkins H, Stevenson WG, Rhodes LA, Deal BJ, Wolff GS, Demaso DR, Hanisch D, Van Hare GF. NASPE Expert Consensus Conference: Radiofrequency catheter ablation in children with and without congenital heart disease. Report of the writing committee. North American Society of Pacing and Electrophysiology. Pacing Clin Eletrophysiol 2002;25:1000-1017. 6. Zipes DP, Ackerman MJ, Estes NA 3rd, Grant AO, Myerburg RJ, Van Hare G. Task Force 7: arrhythmias. J Am Coll Cardiol 2005;45:1354-1363. 7. Guize L, Soria R, Chaouat JC, Chretien JM, Houe D, Le Heuzey JY. [Preva-lence and course of Wolff-Parkinson-White syndrome in a population of 138,048 subjects]. Ann Med Interne (Paris) 1985;136:474-478. 8. Hiss RG, Lamb LE. Electrocardiogarphic findings in 122,043 individuals. Circulation 1962;25:947-961. 9. Swiderski J, Lees MH, Nadas AS. The Wolff-Parkinson-White syndrome in infancy and childhood. Br Heart J 1962;24:561-580. 10. Averill KH, Fosmoe RJ, Lamb LE, Electrocardiogarphic findings in 67,375 asymptomatic subjects. IV. Wolff-Parkinson-White syndrome. Am J Cardiol 1960;6:108-129. 11. Davidoff R, Schamroth CL, Myburgh DP. The Wolff-Parkinson-White pattern in health aircrew. Aviat Space Environ Med 1981;52:554-558. 12. Hejtmancik MR, Herrmann GR. The electrocardiogarphic syndrome of short P-R interval and broad QRS complexes; a clinical study of 80 cases. Am Heart J 1957;54:708-721. 13. Manning GW. An electrocardiogarphic study of 17,000 fit, young Royal Canadian Air Force aircrew applicants. Am J Cardiol 1960;6:70-75. 14. Vidaillet HJ Jr, Pressley JC, Henke E, Harrell FE Jr, German LD. Familial occurrence of accessory atrioventricular pathways (preexcitaiton syndrome) N Engl J Med 1987;317:65-69. 15. Deal BJ, Keane JF, Gillette PC, Garson A Jr. Wolff-Parkinson-White syndrome and supraventricular tachycardia during infancy: management and follow-up. J Am Coll Cardiol 1985;5:130-135. 16. Goudevenos JA, Katsouras CS, Graekas G, Argiri O, Giogiakas V, Sideris DA. Ventricular pre-excitation in the general population: a study on the mode of presentation and clinical course. Heart 2000;83:29-34. 17. Munger TM, Packer DL, Hammill SC, Feldman BJ, Bailey KR, Ballard DJ, Holmes DR Jr, Gersh BJ. A population study of the natural history of Wolff-Parkinson-White syndrome in Olmsted County, Minnesota, 1953-1989. Cir-culation 1993;87:866-873. 18. Becquart J, Vaksmann G, Becquart V, Dupuis C. [Prognosis of Wolff-Parkinson-White syndrome in infants. Apropos of 31 cases]. Arch Mal Coeur Vaiss 1988;81:695-700. 19. Soria R, Guize L, Chretien JM, Le Heuzey JY, Lavergne T, Desnos M, Hagege A, Guerre Y. [The natural history of 270 cases of Wolff-Parkinson-White syndrome in a survey of the general population]. Arch Mal Coeur Vaiss 1989;82:331-336. 20. Perry JC, Garson A Jr. Supraventricular tachycardia due to Wolff-Parkinson-White syndrome in children: early disappearance and late recurrence. J Am Coll Cardiol 1990;16:1215-1220. 21. Kolditz DP, Wijffels MC, Blom NA, van der Laarse A, Markwald RR, Schalij MJ, Gittenberger-de Groot AC. Persistence of functional atrioventricular accessory pathways in postseptated embryonic avian hearts: implications for morphogenesis and functional maturation of the cardiac conduction system. Circulation 2007;115:17-26. 22. Murphy RT, Mogensen J, McGarry K, Bahl A, Evans A, Osman E, Syrris P, Gorman G, Farrell M, Holton JL, Hanna MG, Hughes S, Elliott PM, Macrae CA, McKenna WJ. Adenosine monophosphate-activated protein kinase disease mimicks hypertrophic cardiomyopathy and Wolff-Parkinson-White syndrome: natural history. J Am Coll Cardiol 2005;45:922-930. 23. Ghosh S, Avari JN, Rhee EK, Woodard PK, Rudy Y. Hypertrophic cardiomyopathy with preexcitation: insights from noninvasive electrocardiographic imaging (ECGI) and catheter mapping. J Cardiovasc Electrophysiol 2008;19:1215-1217. 24. Arad M, Maron BJ, Gorham JM, Johnson WH Jr, Saul JP, Perez-Atayde AR, Spirito P, Wright GB, Kanter RJ, Seidman CE, Seidman JG. Glycogen storage diseases presenting as hypertrophic cardiomyopathy. N Engl J Med 2005;352:362-372. 25. Maron BJ, Roberts WC, Arad M, Haas TS, Spirito P, Wright GB, Almquist AK, Baffa JM, Saul JP, Ho CY, Seidman J, Seidman CE. Clinical outcome and phenotypic expression in LAMP2 cardiomyopathy. JAMA 2009;301:1253-1259. 26. Benson DW Jr, Dunnigan A, Benditt DG. Follow-up evaluation of infant paroxysmal atrial tachycardia: transesophageal study. Circulation 1987;75:542-549. 27. Fan W, Peter CT, Gang ES, Mandel W. Age-related changes in the clinical and electrophysiologic characteristics of patients with Wolff-Parkinson-White syndrome: comparative study between young and elderly patients. Am Heart J 1991;122:741-747. 28. Klein GJ; Yee R, Sharma AD. Longitudinal electrophysiologic assessment of asymptomatic patients with the Wolff-Parkinson-White electrocardiographic pattern. N Engl J Med 1989;320:1229-1233. 29. Santinelli V, Radinovic A, Manguso F, Vicedomini G, Gulletta S, Paglino G, Mazzone P, Ciconte G, Sacchi S, Sala S, Pappone C. The natural history of asymptomatic ventricular pre-excitation a long-term prospective follow up study of 184 asymptomatic children. J Am Coll Cardiol 2009;53:275-280. 30. Sarubbi B, Scognamiglio G, Limongelli G, Mercurio B, Pacileo G, Pisacane C, Russo MG, Calabro R. Asymptomatic ventricular pre-excitation in children and adolescents: a 15 year follow up study. Heart 2003;89:215-217. 31. Emmel M, Balaji S, Sreeram N. Ventricular preexcitation associated with dilated cardiomyopathy: a causal relationship? Cardiol Young 2004;14:594-599. 32. Tomaske M, Janousek J, Razek V, Gebauer RA, Tomek V, Hindricks G, Knirsch W, Bauersfeld U. Adverse effects of Wolff-Parkinson-White syndrome with right septal or posteroseptal accessory pathways on cardiac function. Europace 2008;10:181-189. 33. Dreifus LS, Haiat R, Watanabe Y, Arriaga J, Reitman N. Ventricular fibrillation. A possible mechanism of sudden death in patients and Wolff-Parkinson-White syndrome. Circulation 1971;43:520-527. 34. Topaz O, Perin E, Cox M, Mallon SM, Castellanos A, Myerburg RJ. Young adult survivors of sudden cardiac arrest: analysis of invasive evaluation of 22 subjects. Am Heart J 1989;118:281-287. 35. Russel MW DP, Dick MD. Incidence of catastrophic events associated with the Wolff-Parkinson-White syndrome in young patients: diagnostic and therapeutic dilemma. Circulation 1993;1993:484(a). 36. Deal BJ DM, Beerman L, Silka M, Walsh EP, Klitzner T, Kugler J. Cardiac arrest in young patients with Wolff-Parkinson-White syndrome Pacing Clin Electrophysiol 1995;18:815(a). 37. Bromberg BI, Lindsay BD, Cain ME, Cox JL. Impact of clinical history and electrophysiologic characterization of accessory pathways on management strategies to reduce sudden death among children with Wolff-Parkinson-White syndrome. J Am Coll Cardiol 1996;27:690-695. 38. Pappone C, Santinelli V, Rosanio S, Vicedomini G, Nardi S, Pappone A, Tortoriello V, Manguso F, Mazzone P, Gulletta S, Oreto G, Alfieri O. Usefulness of invasive electrophysiologic testing to stratify the risk of arrhythmic events in asymptomatic patients with Wolff-Parkinson-White pattern: results from a large prospective long-term follow up study. J Am Coll Cardiol 2003;41:239-244. 39. Fukatani M, Tanigawa M, Mori M, Konoe A, Kadena M, Shimizu A, Hashiba K. Prediction of a fatal atrial fibrillation in patients with asymptomatic Wolff-Parkinson-White pattern. Jpn Circ J 1990;54:1331-1339. 40. Pietersen AH, Andersen ED, Sandoe E. Atrial fibrillation in the Wolff-Parkinson-White syndrome. Am J Cardiol 1992;70:38A-43A. 41. Brembilla-Perrot B, Moejezi RV, Zinzius PY, Jarmouni S, Schwartz J, Beurrier D, Sellal JM, Nossier I, Muresan L, Andronache M, Moisei R, Selton O, Louis P, de la Chaise AT. Missing diagnosis of preexcitation syndrome on ECG Clinical and electrophysiological significance. Int J Cardiol 2011;[Epub ahead of print]. Int J Cardiol 2011 June 23.
Chi Phí Chữa Bệnh Sùi Mào Gà Hết Bao Nhiêu Tiền (Xét Nghiệm, Đốt Điều Trị)
Chi phí chữa bệnh sùi mào gà hết bao nhiêu tiền, chi phí xét nghiệm sùi mào gà, chi phí đốt sùi mào gà, chữa sùi mào gà bao lâu thì khỏi hay đốt sùi mào gà có đau không là những thông tin được nhiều người quan tâm. Ngày nay thì tỉ lệ người mắc các bệnh xã hội nói chung, bệnh sùi mào gà nói riêng là rất lớn và bài viết này các chuyên gia Phòng khám đa khoa Thái Hà sẽ giúp các bạn giải đáp thắc mắc về chi phí chữa sùi mào gà và thời gian khỏi bệnh.
Sùi mào gà là gì?Bệnh sùi mào gà hay còn gọi là bệnh mồng gà là một căn bệnh lây nhiễm chủ yếu qua đường sinh dục xuất hiện ở cả nam giới và nữ giới, do virus HPV (Human papilloma virus) gây nên. Virus HPV có hơn 100 loại siêu vi trùng có thể gây nhiễm trùng dương vật, âm hộ hoặc hậu môn. Theo như thống kê thì có tới 50% nam giới và nữ giới có hoạt động tình dục nhiễm HPV một lần trong đời. Thông thường bệnh có thời gian ủ bệnh từ 3 tuần đến 9 tháng mới xuất hiện các triệu chứng đầu tiên.
Bệnh sùi mào gà là một trong những bệnh xã hội nếu không kịp thời phát hiện và điều trị thì sẽ để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Hiện nay thì đã có rất nhiều những phương pháp chữa bệnh sùi mào gà, ngoài điều trị sùi mào gà bằng thuốc thì ngày nay đã có phương pháp ngoại khoa để điều trị bệnh sùi mào gà.
Chi phí xét nghiệm và chữa trị bệnh sùi mào gà hết bao nhiêu tiềnCó rất nhiều phương pháp điều trị bệnh sùi mào gà, từ dùng thuốc đến các phương pháp ngoại khoa như đốt sùi mào gà, phẫu thuật hay phương pháp điều trị theo công nghệ DAO LEEP, một phương pháp được đánh giá là tiên tiến nhất.
Chi phí chữa bệnh sùi mào gà sẽ bao gồm: Chi phí thăm khám ban đầu, chi phí làm các xét nghiệm, chi phí điều trị, chi phí thuốc men, tái khám… Các bác sĩ cho biết, rất khó để đưa ra một mức chi phí điều trị sùi mào gà cụ thể vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau:
Chi phí xét nghiệm sùi mào gàỞ bước này các bạn sẽ phải chi một khoản phí để khám tổng quan ban đầu, sau khi đặt lịch hẹn thì bạn sẽ đến phòng khám để gặp bác sĩ. Bác sĩ sẽ hỏi thăm về tình trạng bệnh của bạn, các dấu hiệu của cơ thể cũng như thăm hỏi về tiền sử của người bệnh. Sau đó sẽ tiến hành đi làm một số xét nghiệm để chẩn đoán bệnh ở mức độ cụ thể.
Xét nghiệm là một phương pháp chẩn đoán bệnh được áp dụng phổ biến nhất sau bước khám qua các dấu hiệu bên ngoài. Đối với bệnh sùi mào gà, các bác sĩ sẽ chỉ thị người bệnh tiến hành xét nghiệm các xét nghiệm cụ thể như: xét nghiệm máu, xét nghiệm mẫu vật, xét nghiệm dịch tiết,… Tùy vào tình trạng bệnh mà các bác sĩ sẽ chỉ thị làm các xét nghiệm khác nhau:
Xét nghiệm máu: là phương pháp giúp các bác sĩ chẩn đoán bệnh ở giai đoạn đầu. Đây là một phương pháp phổ biến để kiểm tra đối với hầu như tất cả các bệnh.
Xét nghiệm mẫu vật: thì áp dụng cho bệnh ở cấp độ nặng hơn, bác sĩ sẽ dùng một thiết bị y tế để lấy lại các vết sùi trên cơ thể của bạn rồi sau đó mang đi xét nghiệm kết hợp vs xét nghiệm máu để cho ra kết quả chính xác hơn. Có thể chắc chắn hơn bạn có bị mắc bệnh sùi mào gà hay không.
Xét nghiệm dịch tiết: như các bạn đã biết, HPV chính là virus gây bệnh, nó sinh sống và nảy nở ở trong môi trường ẩm ướt. Do đó, để xác minh bạn có bị mắc sùi mào gà hay không thì các bác sĩ cần tiến hành xét nghiệm dịch tiết đạo. Việc xét nghiệm sẽ biết trong cơ thể bạn có sự xâm nhập của virus HPV hay không, nếu có chứng tỏ bạn đã bị mắc bệnh.
Tình trạng sức khỏe người bệnhSức khỏe của bệnh nhân là một yếu tố rất quan trọng quyết định thời gian và hiệu quả điều trị sùi mào gà. Nếu bệnh nhân khỏe mạnh, sức đề kháng tốt thì có thể giúp cơ thể ức chế và chống chọi được với sự phát triển của virus, từ đó giúp cho quá trình điều trị sẽ nhanh chóng, không mất quá nhiều thời gian cho việc nuôi dưỡng và bổ sung dưỡng chất cho cơ thể. Như vậy, chi phí chữa bệnh sùi mào gà cũng được giảm đi một phần nhờ sức khỏe của cơ thể.
Ngược lại, nếu bệnh nhân có sức khoẻ yếu, khả năng miễn dịch thấp thì việc ngăn chặn virus phát triển sẽ khó khăn hơn, từ đó chi phí điều trị bệnh sùi mào gà cũng sẽ cao hơn.
Cơ sở điều trị sùi mào gàĐịa chỉ chữa sùi mào gà sẽ có ảnh hưởng đến chi phí chữa bệnh của bạn, khi bạn đến khám và điều trị tại một cơ sở uy tín, chuyên nghiệp với đội ngũ bác sĩ giỏi thì đường nhiên mức chi phí mà bạn bỏ ra sẽ cao hơn một chút. Việc chi phí bỏ ra cao hơn một chút để đổi lại chất lượng dịch vụ tốt, phương pháp điều trị bệnh tiên tiến và các trang thiết bị đảm bảo vệ sinh thì điều đó cũng không có gì đáng bận tâm.
Ngày nay trên thị trường đã có rất nhiều những địa chỉ khám chữa bệnh sùi mào gà mở ra, nhưng không được sở y tế cấp phép hoạt động, ở những phòng khám đó có mức chi phí rẻ hơn nên người bệnh đã tham rẻ và đến chữa trị tại đó, dẫn đến hậu quả “tiền mất tật mang”, tưởng là rẻ nhưng hóa ra lại thành đắt. Do đó, các bạn hãy đến những phòng khám và bệnh viện để được hỗ trợ chữa bệnh tốt nhất như: phòng khám đa khoa Thái Hà. Phòng khám đã chữa thành công cho rất nhiều người mắc sùi mào gà và là địa chỉ khám chữa bệnh được mọi người đánh giá rất cao.
Chưa hết, bác sĩ điều trị tại cơ sở y tế phải là đội ngũ bác sĩ có nhiều năm kinh nghiệm, luôn trau dồi và bổ sung kiến thức khám chữa bệnh của bản thân. Bác sĩ là những người thầy thuốc có y đức, thiên lượng và có tấm lòng sẵn sàng hết lòng vì bệnh nhân.
Chi phí điều trị bệnh sùi mào gàChi phí điều trị bệnh sùi mào gà đương nhiên sẽ phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp điều trị, mỗi phương pháp sẽ cho một khoản chi phí khác nhau. Hiện nay thì có một số phương pháp điều trị sùi mào gà như:
Điều trị bằng thuốc: Chi phí chữa bệnh sùi mào gà bằng thuốc là thấp nhất so với các phương pháp khác. Điều trị sùi mào gà bằng thuốc thường áp dụng với bệnh ở giai đoạn đầu, các u nhú nằm vị bên ngoài. Nhược điểm là bệnh dễ tái phát, không điều trị được ở những vị trí kín hay bệnh nặng, người bệnh phải kiên trì.
Phương pháp áp lạnh: đây là phương pháp mà nitơ lỏng sẽ được phun lên vùng có các u nhú để làm đóng băng và phá hủy các tế bào bị ảnh hưởng và sau một khoảng thời gian thì các vảy sùi sẽ rơi ra. Tuy nhiên, phương pháp này tương đối đau đớn.
Phương pháp đốt sùi mào gà bằng laser: phương pháp này cho độ thành công cao và ít có khả năng tái phát. Tuy nhiên, nó gây ra những tổn thương không hề nhỏ, do đó nó chỉ dùng trong trường hợp bệnh nặng và khi dùng phải lưu ý một số điều, các bạn mắc bệnh có thể trực tiếp hỏi bác sĩ về phương pháp này.
Phương pháp đốt điện: đây là phương pháp mà sử dụng dòng điện với tần suất cao để loại bỏ các khối u sùi của bệnh. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi phải thực hiện ở một bác sĩ có tay nghề cao và có độ hồi phục khá chậm.
Ngày nay, khoa học ngày càng phát triển và tiên tiến hơn đã đưa ra thêm một phương pháp chữa bệnh sùi mào gà mới đó là chữa bệnh sùi mào gà bằng công nghệ DAO LEEP: đây là một phương pháp mới, với rất nhiều ưu điểm vượt trội. Kỹ thuật này mang lại hiệu quả cao, khả năng tái phát gần như không có. Và chi phí chữa sùi mào gà bằng phương pháp DAO LEEP cũng sẽ cao hơn so với các phương pháp khác.
Tái khám theo chỉ địnhChi phí chữa sùi mào gà cũng phụ thuộc vào mức độ bạn đến tái khám. Căn bệnh không phải là một căn bệnh bình thường, nó cực kỳ nguy hiểm và rất dễ bị lại đối với những người đã từng bị. Do đó, bạn phải thường xuyên đi tái khám để đảm bảo bệnh không tái phát và cơ thể mình vẫn khỏe mạnh.
Phòng khám đa khoa Thái Hà hiện đang có chương trình ưu đãi khám bệnh sùi mào gà với chi phí chỉ , ngoài ra còn giảm thêm phí tiểu phẫu với bệnh nhân đăng ký trực tuyến trước khi đến khám, áp dụng cho 10 bệnh nhân mỗi ngày.
Chữa sùi mào gà bao nhiêu lâu thì khỏiTheo như các bác sĩ Phòng khám nam khoa Thái Hà nhận định thì không có một khoảng thời gian chính xác nào được nêu ra để nói về thời gian bao lâu bệnh khỏi bởi nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau:
Tùy vào cơ địa từng người mà cho hiệu quả điều trị khác nhau, có người sức đề kháng tốt thì rất nhanh sau đó đã khỏi hoàn toàn, còn có những người sức đề kháng yếu thì thời gian điều trị bệnh sẽ lâu hơn.Phương pháp điều trị bệnh cũng sẽ quyết định về thời gian khỏi bệnh. Nếu bạn áp dụng phương pháp điều trị bệnh tiên tiến và hiện đại thì mức độ khỏi bệnh của bạn sẽ nhanh chóng hơn, bạn sẽ đạt hiệu quả cao trong quá trình điều trị và khả năng tái phát là rất thấp. Như vậy, bệnh của bạn sẽ khỏi nhanh hơn. Đối với những phương pháp điều trị truyền thống thì sẽ gây lên nhiều tổn thương cho cơ thể, một số trường hợp đau đớn kéo dài thêm thời gian điều trị, suy ra tỉ lệ khỏi bệnh sẽ là khá lâu.
Bệnh nhân khi tham gia vào quá trình điều trị nên tin tưởng và tuyệt đối làm theo chỉ dẫn của bác sĩ để cho lại hiệu quả tốt và nhanh nhất. Cần phải tuân thủ theo những gì mà bác sĩ hướng dẫn, tránh tự ý làm khác đi. Chỉ có như vậy, thì bệnh của các bạn mới khỏi nhanh chóng được.
Sùi mào gà là một căn bệnh xã hội lây nhiễm rất nhanh qua đường sinh dục, do đó các bạn hãy nên lưu ý trong các mối quan hệ của mình, đừng để đến lúc quá muộn rồi mới hối tiếc.
Chi Phí Điều Trị Bệnh Sùi Mào Gà
Chi phí điều trị sùi mào gà là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều bệnh nhân. Mặc dù chữa bệnh không nên quá nặng nề vấn đề chi phí, nhưng xác định được mức chi phí chữa bệnh sùi mào gà sẽ giúp bệnh nhân yên tâm hơn trong việc chữa bệnh. Từ đó góp phần đạt hiệu quả cao trong việc điều trị bệnh sùi mào gà.
Chào Nhà thuốc, trong một lần say rượu em có quan hệ với gái mại dâm và không sử dụng biện pháp phòng tránh. Gần đây vùng kín của em nổi lên những nốt sùi nhỏ. Em mới đi khám và có kết quả mình bị bệnh sùi mào gà. Em muốn chữa bệnh nhưng không biết điều trị bệnh sùi mào gà có hết nhiều tiền không ạ và phương pháp nào tiện dụng và tiết kiệm nhất, phù hợp với sinh viên như em. Mong Nhà thuốc tư vấn cho em về phương pháp và chi phí điều trị sùi mào gà. Em xin cảm ơn!
Sùi mào gà là một trong những bệnh lây nhiễm chủ yếu qua đường tình dục không an toàn.
Theo các chuyên gia, bệnh sùi mào gà được đánh giá là không quá nguy hiểm, nhưng khó chữa và có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tâm sinh lý của bệnh nhân và tiềm ẩn nguy cơ ung thư.
Hiện nay, có rất nhiều phương pháp điều trị căn bệnh sùi mào gà. Mỗi phương pháp có ưu nhược điểm và mức phí chữa bệnh khác nhau. Tuy nhiên, Nhà thuốc chúng tôi xin giới thiệu 1 phương pháp điều trị hiệu quả và tiết kiệm nhất cho bạn. Với chi phí điều trị chỉ 650.000đ, tính tới thời điểm này – đây được coi là mức chi phí tiết kiệm nhất, phù hợp với điều kiện kinh tế của đại đa số mọi người, kể cả sinh viên hay người lao động.
Địa chỉ cung cấp thuốc podophyllin 25: Nhà thuốc 103 là địa chỉ phân phối về dược phẩm uy tín và chất lượng lâu năm tại Hà Nội, từ lâu đã được nhiều người dân Hà Nội tin yêu.
Tại đây, chúng tôi có cung cấp thuốc podophyllin 25 là 1 loại thuốc đặc trị về căn bệnh sùi mào gà. Thuốc Podophyllin 25 có nguồn gốc Thái Lan, được coi là thuốc điều trị bệnh sùi mào gà tốt và tiện dụng nhất hiện nay.
BẠN HOÀN TOÀN CÓ THỂ THOÁT KHỎI CƠN ÁC MỘNG VỀ BỆNH SÙI MÀO GÀ. ✔ Các nốt sùi BIẾN MẤT HOÀN TOÀN sau 4 – 6 lần bôi. ✔ Phương pháp điều trị không đau, không để lại sẹo. ✔ Thuốc có thể tự điều trị tại nhà dễ dàng, tiện dụng và bí mật. ✔ Tiết kiệm tối đa chi phí chữa trị so với các phương pháp khác (đốt điện, lazer…)
Khác với những phương pháp điều trị bệnh sùi mào gà khác như: đốt điện, lazer… chỉ phá hủy bề mặt của những nốt sùi mào gà, nên tỉ lệ bệnh nhân bị tái phát sau khi đốt là rất cao. Còn thuốc podophyllin có cơ chế tác động sâu vào tận chân nốt sùi, loại bỏ được chính xác nhân tố gây bệnh và giúp cơ thể điều trị thành công virus HPV.
Theo thống kê của Nhà thuốc trên hàng nghìn bệnh nhân đã mua và sử dụng thuốc podophyllin, phương pháp trên có thể điều trị bệnh sùi mào gà có tỷ lệ thành công lên tới 98,5%. Đồng thời ngăn ngừa nguy cơ tái phát bệnh trở lại.
Vậy mua thuốc ở đâu có chất lượng và giá cả tốt nhất? khi ở trên mạng cũng tràn lan người bán với mức giá cắt cổ. Bạn có thể tham khảo về chính sách của bên Nhà thuốc chúng tôi:✪ SỰ THẬT THỨ 1: Với lợi thế được phân phối qua hệ thống Nhà thuốc 103 có địa chỉ cụ thể rõ ràng, nói không với buôn bán chộp giật trên mạng. Bạn sẽ hoàn toàn yên tâm về nguồn gốc, chất lượng thuốc cũng như được sự tư vấn của các dược sĩ có chuyên môn. ✪ SỰ THẬT THỨ 2: Không ở đâu, khi mua thuốc, bạn sẽ được nhận kèm thuốc mỡ kháng sinh bôi và tư vấn tận tình trong và sau sử dụng thuốc. ✪ SỰ THẬT THỨ 3: Thuốc là mặt hàng đặc thù nên khi mở ra rất dễ ảnh hưởng đến chất lượng thuốc và khả năng điều trị nên Nhà thuốc chúng tôi không chia nhỏ thuốc khi bán, chỉ bán hàng nguyên đai, nguyên nắp. Thuốc nhập trực tiếp từ Thái Lan về chỉ có duy nhất 1 dung tích 15ml. ✪ SỰ THẬT THỨ 4: Hoàn tiền gấp 10 cho ai chứng minh được thuốc giả. ✪ SỰ THẬT THỨ 5: Thuốc Podophyllin có cả tác dụng trong điều trị mụn cơm, mụn cóc, chai chân. ✪ SỰ THẬT THỨ 6: Quan trọng nhất, thuốc podophyllin được Nhà thuốc chúng tôi cung cấp với mức giá chỉ cho 1 lọ 15ml.
Những Điều Cần Biết Về Hội Chứng Wolff
Hội chứng Wolff-Parkinson-White (WPW) là một dạng rối loạn nhịp tim với những nhịp tim nhanh bất thường xuất hiện trong khoảng thời gian ngắn, với tỷ lệ mắc là 1 – 3/ 1.000 người, có thể đe dọa tính mạng người bệnh nếu nó xuất hiện cùng rung nhĩ.
Nguyên nhân gây ra Hội chứng Wolff-Parkinson-WhiteNguyên nhân của hội chứng Wolff-Parkinson-White được phát hiện là do trái tim của người bệnh bẩm sinh đã có thêm một đường nối điện phụ (cấu tạo từ các sợi cơ tim) trong hệ thống dẫn truyền xung điện tim, gây ra bởi nhóm các sợi cơ tim bất thường xuất hiện trong tim của thai. Xung điện tim thay vì đi từ tâm nhĩ đến tâm thất như bình thường thì lại đi qua đường nối điện phụ này, tạo thành một con đường dẫn truyền ngắn hơn gây ra nhịp tim nhanh trên thất.
Đường nối điện phụ trong hội chứng Wolff-Parkinson-White làm rối loạn nhịp tim
Nhiều người có đường nối điện phụ này nhưng không hề phát bệnh cho đến khi về già, nhưng cũng có những trường hợp phát hiện mắc hội chứng này rất sớm, ở độ tuổi từ 20 – 40. Hội chứng Wolff-Parkinson-White không có triệu chứng vẫn có thể phát hiện được khi người bệnh tình cờ đo điện tâm đồ ở bệnh viện để khám các bệnh lý khác.
Hội chứng Wolff-Parkinson-White có nguy hiểm không?Hội chứng Wolff-Parkinson-White đôi khi có thể đe dọa tính mạng, đặc biệt là nếu nó xảy ra cùng một loại rối loạn nhịp tim được gọi là rung nhĩ. Tuy nhiên, tình trạng này hiếm khi xảy ra và có thể loại bỏ nguy cơ này nếu người bệnh được phát hiện và điều trị sớm.
Dấu hiệu nhận biết Hội chứng Wolff-Parkinson-WhiteNếu bạn mắc hội chứng Wolff-Parkinson-White có triệu chứng, bạn sẽ cảm nhận được các giai đoạn trái tim đập nhanh, trước khi đột ngột chậm lại. Những nhịp tim nhanh bất thường này còn còn được gọi là nhịp nhanh trên thất (SVT).
– Tim đập nhanh, dồn dập
– Lo lắng, toát mồ hôi
Cơn nhịp nhanh trên thất có thể chỉ kéo dài trong vài giây đến vài phút hoặc một vài giờ, hiếm có trường hợp nào kéo dài nhiều ngày. Tùy thuộc vào từng người mà cơn tim nhanh trên thất có thể xảy ra 1 vài lần mỗi ngày, có người lại chỉ xuất hiện vài lần trong năm. Nó thường xảy ra một cách ngẫu nhiên không thể dự đoán trước. Tuy nhiên, một số người bệnh cho rằng họ thường bị cơn tim nhanh trên thất khi tập thể dục cường độ cao hoặc uống quá nhiều rượu, cà phê.
Khi nào cần đi khámĐi khám để phát hiện sớm hội chứng Wolff-Parkinson-White
Nếu bạn chưa được chẩn đoán mắc hội chứng Wolff-Parkinson-White mà có các triệu chứng đã nêu ở trên, bạn nên đến bệnh viện sớm để được điều trị. Nếu các triệu chứng kéo dài hoặc nghiêm trọng, bạn cần gọi ngay cấp cứu hoặc nhờ người thân đưa đi bệnh viện càng sớm càng tốt.
Chẩn đoán hội chứng Wolff-Parkinson-WhiteHội chứng Wolff-Parkinson-White thường được chẩn đoán dễ dàng bằng phương pháp đo điện tâm đồ. Do đó, nếu bạn đến bệnh viện với các nghi vấn mắc hội chứng này, bạn sẽ được chỉ định đo điện tâm đồ đầu tiên. Tuy nhiên, không phải lúc nào cơn tim nhanh cũng dễ dàng xuất hiện, nhất là trong lúc đo điện tâm đồ nên người bệnh sẽ phải đeo một thiết bị điện tâm đồ di động (máy Holter) trong một vài ngày để phát hiện các biểu hiện bất thường.
Điều trị hội chứng Wolff-Parkinson-WhiteTrong nhiều trường hợp, hội chứng Wolff-Parkinson-White là vô hại, thời gian xuất hiện ngắn và ổn định nên không cần điều trị.
Trong trường hợp các triệu chứng xuất hiện thường xuyên và nghiêm trọng, bạn cần được theo dõi và điều trị sớm. Mục tiêu trong điều trị hội chứng Wolff-Parkinson-White bao gồm: Dừng cơn tim nhanh trên thất hiện có và ngăn ngừa cơn nhịp nhanh tái phát trong tương lai.
Dừng cơn tim nhanh trên thấtCó ba kỹ thuật và phương pháp điều trị chính để ngừng cơn tim nhanh trên thất do hội chứng WPW, bao gồm:
– Bài tập Vagal: Người bệnh hít vào 1 hơi thật sâu, bịt mũi, ngậm miệng và cố gắng thở ra. Bài tập này kích thích vào dây thần kinh phế vị và làm chậm lại các tín hiệu điện tim.
Thuốc tiêm adenosine thường được áp dụng khi người bệnh điều trị ở bệnh viện, sau khi thực hiện bài tập Vagal nhưng không có tác dụng.
Dùng phương pháp sốc điện để loại bỏ các tín hiệu điện tim đang bị rối loạn.
Ngăn ngừa cơn tim nhanh trên thất tái phátĐể phòng ngừa cơn tim nhanh trên thất tái phát do hội chứng Wolff-Parkinson-White, người bệnh cần:
– Thay đổi lối sống: Hạn chế uống rượu bia, tập thể dục ở mức độ vừa phải sẽ giúp hạn chế các cơn tim nhanh trên thất tái phát.
Loại thuốc chống loạn nhịp tim như amiodarone giúp ngăn ngừa cơn tim nhanh tái phát do chúng có khả năng làm chậm các xung điện trong tim.
– Đốt điện bằng năng lượng sóng cao tần: Phương pháp này giúp loại bỏ đường nối điện phụ bẩm sinh trong tim, có tác dụng tốt với khoảng 95% các trường hợp mắc hội chứng Wolff-Parkinson-White.
Chi Phí Điều Trị Bệnh Lậu Nữ Có Đắt Không?
Đối với các chị em khi mắc thì bên cạnh những băn khoăn về chất lượng điều trị bệnh lý thì chi phí điều trị bệnh lậu nữ như thế nào cũng là vấn đề rất được quan tâm. Bởi hiện có rất nhiều chị em lo sợ rằng chi phí điều trị tốn kém, điều này rất nguy hiểm bởi bệnh để lậu có thể dẫn tới các biến chứng khôn lường. Trong nội dung bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu chi phí điều trị bệnh lậu nữ.
Lậu là một trong những thường gặp ở nữ giới do loại vi khuẩn có tên Neisseria Gonorrhoeae gây ra. Khi mắc bệnh, chị em thường có biểu hiện:
Vùng âm hộ xuất hiện dịch mủ, bị ngứa rát và đau âm ỉ ở bụng dưới, khí hư hôi.
Đi rát và đau, kèm theo có mủ vàng và cảm giác nóng rát trong niệu đạo.
Đau khi quan hệ khiến chị em mất tự tin, giảm ham muốn
Gây sốt, buồn nôn, mệt mỏi
CÁC CON ĐƯỜNG LÂY TRUYỀN BỆNH LẬU– 01. Quan hệ tình dục: Vi khuẩn lậu thường lây truyền chủ yếu qua đường tình dục khi quan hệ tình dục không sử dụng biện pháp an toàn.
– 02. Dùng chung các đồ dùng cá nhân: Các chị em có nguy cơ bị nhiễm lậu nếu dùng chung đồ lót, bàn chải, kem đánh răng, khăn tắm, dao cạo,… của người bệnh.
– 03. Từ mẹ truyền sang con: bệnh có thể lây truyền từ mẹ sang con khi mẹ bị bệnh, sinh thường. Trong quá trình chăm sóc trẻ, mẹ cũng cần lưu ý không để dịch tiết dịch mủ dính vào cơ thể của bé.
– 04. Đường máu: Vi khuẩn lậu có thể lây truyền qua đường máu, khi dùng chung bơm kim tiêm, truyền máu hoặc có sự tiếp xúc với các vết thương hở.
THỜI GIAN Ủ BỆNH VÀ CÁC GIAI ĐOẠN CỦA BỆNH LẬUThời gian ủ bệnh được tính từ sau khi bệnh nhân tiếp xúc với vi khuẩn lậu cho đến khi xuất hiện các triệu chứng. Thông thường thì khá ngắn, dao động trong khoảng từ 1 đến 14 ngày. Tùy thuộc thể trạng của mỗi người mà thời gian ủ bệnh khác nhau. Trong thời gian ủ bệnh, người bệnh chưa có triệu chứng lâm sàng nhưng đã có thể lây truyền bệnh.
Bệnh lậu phát triển thông qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Vi khuẩn lậu sẽ xâm nhập vào niệu đạo. Sau khoảng 36 tiếng, vi khuẩn có thể tấn công cơ thể và bắt đầu phát triển.
Giai đoạn 2: Vi khuẩn bắt đầu có dấu hiệu phát triển.
Giai đoạn 3: Các triệu chứng bệnh xuất hiện rầm rộ.
CÁC BIẾN CHỨNG NGUY HIỂM CỦA BỆNH LẬUBệnh lậu có thể gây nên biến chứng nguy hiểm bao gồm:
01. Viêm hậu môn – trực tràng: Xảy ra do quan hệ tình dục đường hậu môn mà không sử dụng các biện pháp an toàn. Triệu chứng là đau, tiết ra dịch mủ ở vùng hậu môn, vùng trực tràng.
02. Viêm họng do lậu: Xảy ra do quan hệ tình dục đường miệng.
03. Viêm khớp do lậu: Xảy ra đồng thời với lậu cấp đường sinh dục.
04. Xuất hiện biến chứng toàn thân, cơ thể rát đỏ, ban mề đay, hồng ban.
05. Viêm quanh gan.
Liên hệ với bác sĩ để được tư vấn về bệnh lậu [TẠI ĐÂY]
Lậu có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên tình trạng lậu kháng thuốc ngày càng tăng. Vì vậy, nếu vẫn còn triệu chứng sau khi hết thuốc người bệnh cần tới gặp bác sĩ ngay. Khi điều trị bệnh, cần tuân thủ những nguyên tắc chung sau:
Việc điều trị bao gồm cả chồng và bạn tình
Cần duy trì chế độ sinh hoạt, nghỉ ngơi hợp lý, tránh những hoạt động nặng
Kết hợp điều trị các tình trạng nhiễm khuẩn sau lậu
Khám lâm sàng và xét nghiệm định kỳ sau điều trị
CHI PHÍ ĐIỀU TRỊ BỆNH LẬU Ở NỮ HẾT BAO NHIÊU?Chia sẻ về chi phí điều trị bệnh , các bác sĩ cho biết điều này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Rất khó để đưa ra mức cụ thể, chính xác. Tùy vào nguyên nhân gây bệnh, mức độ, chất lượng cơ sở y tế trực tiếp điều trị mà mức phí sẽ khác nhau. Vì vậy, ngay khi phát hiện ra những dấu hiệu của bệnh lậu, chị em cần đến ngay các cơ sở y tế uy tín để thăm khám và điều trị, như vậy việc điều trị sẽ đạt hiệu quả cao, tiết kiệm được chi phí.
Thực tế, chi phí chữa bệnh lậu nữ sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như:– 01. Tình trạng bệnh lý: Lậu thường phát triển qua 2 giai đoạn chính là cấp tính và mạn tính. Quá trình điều trị bệnh ở mỗi giai đoạn cũng có sự khác nhau nên mức chi phí điều trị cũng có sự chênh lệnh. Thông thường, nếu như các chị em phát hiện mình mắc bệnh lậu và đi khám ngay từ giai đoạn cấp tính, chi phí điều trị sẽ thấp. Và ngược lại, nếu như người bệnh đi khám và chữa trị bệnh ở giai đoạn mạn tính, chi phí điều trị sẽ tốn kém hơn rất nhiều. Vì vậy, hãy đi khám và điều trị ngay khi phát hiện những triệu chứng bệnh để tiết kiệm chi phí.
– 02. Địa chỉ y tế lựa chọn: Những cơ sở y tế uy tín và chất lượng thường có sự chênh lệch về mức chi phí so với những cơ sở y tế kém chất lượng. Tuy nhiên, các chị em nên lựa chọn những địa chỉ y tế uy tín, nơi có đội ngũ các y bác sĩ giỏi, giàu kinh nghiệm, trang thiết bị y tế hiện đại để việc điều trị bệnh lý đạt hiệu quả cao hơn cũng như là hạn chế được những biến chứng nguy hiểm có thể xảy đến.
– 03. Phương pháp điều trị bệnh lậu: Là một trong những yếu tố quyết định chi phí điều trị. Thông thường thì phương pháp điều trị bệnh mà càng tiên tiến thì hiệu quả điều trị sẽ cao hơn so với các phương pháp điều trị truyền thống, do đó mức chi phí cũng có thể có sự chênh lệch.
– 04. Tình trạng sức khỏe người bệnh: Người bệnh nếu như có sức khỏe tốt, sức đề kháng cao việc điều trị cũng như là quá trình hồi phục sau điều trị sẽ diễn ra nhanh chóng nên chi phí điều trị thường sẽ thấp hơn. Trường hợp ngược lại, những trường hợp sức khỏe kém, khả năng hồi phục chậm thì chi phí điều trị sẽ tăng lên.
– 05. Chi phí phát sinh: Trong quá trình thăm khám bệnh lý, nếu như bác sĩ phát hiện bạn đang mắc phải một bệnh viêm nhiễm nào đó thì cần phải tiến hành điều trị song song nên chi phí điều trị bệnh cũng sẽ tăng lên.
Nếu như các chị em vẫn lo lắng về vấn đề chi phí điều trị bệnh lậu nữ hết bao nhiêu thì có thể trực tiếp đến Phòng khám Đa khoa 52 Nguyễn Trãi để thăm khám và được các bác sĩ ở đây tư vấn cụ thể.
Phòng khám được Sở y tế cấp phép hoạt động nên mọi mức chi phí về giá khám chữa bệnh đều được công khai quy định rõ ràng, chính xác, cụ thể, người bệnh sẽ được tư vấn về mức giá điều trị.
Đặc biệt, đối với việc điều trị bệnh lậu hiện nay, bên cạnh chỉ định sử dụng kháng sinh có độ nhạy cảm cao với lậu cầu khuẩn thì các bác sĩ còn đặt thêm thuốc Đông Y cho bệnh nhân giúp tăng cường hiệu quả điều trị, giảm thiểu tác dụng phụ do dùng kháng sinh kéo dài, cải thiện chức năng miễn dịch, nâng cao sức khỏe tổng thể.
Nếu bạn vẫn lo lắng về vấn đề chi phí điều trị bệnh lậu hết bao nhiêu thì bạn có thể trực tiếp đến phòng khám Đa khoa 52 Nguyễn Trãi Hà Nội để thăm khám và được các bác sĩ tư vấn cụ thể. Đây là phòng khám được Sở y tế cấp phép hoạt động, do đó mọi mức chi phí về giá khám chữa bệnh đều được quy định rõ ràng, chính xác, cụ thể, người bệnh sẽ được tư vấn về mức giá điều trị bệnh trước khi họ quyết định có nên dừng hay tiếp tục chữa trị. Chính sự chuyên nghiệp này đã tạo ra sức hút của phòng khám, là địa chỉ khám chữa bệnh thu hút đông đảo người bệnh trên cả nước đến khám và điều trị bệnh.
Đối với việc điều trị bệnh lậu hiện nay, bên cạnh chỉ định sử dụng kháng sinh có độ nhạy cảm cao với song cầu khuẩn, các bác sỹ còn đặt thêm thuốc Đông Y cho bệnh nhân giúp tăng cường hiệu quả điều trị, giảm thiểu tác dụng phụ do dùng kháng sinh thời gian dài, cải thiện chức năng miễn dịch, nâng cao sức khỏe tổng thể. Đây được coi là một trong những phương pháp bệnh lậu hiệu quả nhất hiện nay, giúp tiết kiệm chi phí cũng như thời gian của người bệnh.
Phòng khám làm việc tất cả các ngày trong tuần (kể cả ngày nghỉ và ngày lễ) từ 7 giờ 30 -20 giờ tại số 52 Nguyễn Trãi, Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội
Cập nhật thông tin chi tiết về Chi Phí Đốt Điện Tim Điều Trị Hội Chứng Wolff trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!