Xu Hướng 3/2023 # 5 Dấu Hiệu Nhận Biết Ngứa Do Nhiễm Giun Sán # Top 4 View | Zqnx.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # 5 Dấu Hiệu Nhận Biết Ngứa Do Nhiễm Giun Sán # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết 5 Dấu Hiệu Nhận Biết Ngứa Do Nhiễm Giun Sán được cập nhật mới nhất trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Bệnh nhiễm ký sinh trùng này rất nhìu mà it ai quan tâm vì biểu hiện không hiện ra ngoài .Lúc sinh sôi nảy nhìu gây ngứa, nổi mề đay. Nhưng người ta không nghĩ bị sán mà nghĩ là dị ứng hoặc viêm da,mề đay, rồi tự ra tiệm thuốc tây nói bệnh và tự mua thuốc uống,,thấy hết ngứa và ko còn nổi nữa là nghĩ hết bệnh.

dù không nuôi chó cũng bị, ấu trùng sán chó sâm nhập từ lỗ chân lông mình vào máu (nằm dưới da) đi chân đất cũng bị nhiễm nếu khu đất đó đã có phân chó mèo

Bệnh SÁN LỚN LÁ GAN là do ăn nhìu rau củ trồng dưới nước như (rau muống,cần nước,ngó sen,súng) do rửa không kỹ và các loại ỐC ở sông đầm. Khi xâm nhập vào gan còn là ẤU TRÙNG.vào Gan lớn lên thành con sán lớn, nằm trong gan và ăn “bột gan” lâu dần khiến gan “BỊ XƠ”

Bác sĩ nói 100 nguời hết 90 nguời đều bị do ăn uống và nhiễm chó mèo, nó không có dấu hiệu nên mình không phát hiện ngoài ngứa

Bị ngứa ở cánh tay,gãi thì lên đốm đốm tựa tay cạnh bàn thì “dấu ngấn” rất lâu da mới trở lại hình ban đầu (còn người không nhiễm sán thì sẽ đàn hồi lại liền). Cần phát hiện sớm để không trở thành bệnh lý như: nổi hột (giống bị nổi sãi) trên mặt. Nếu phát hiện trể lâu ngày ,mặt nổi hột lên gây ngứa giống như dị ứng mỹ phẩm.

Tắm xong sạch sẽ là bị ngứa ( tưởng bị dị ứng sữa tắm ), thật ra có thể bạn đã bị nhiễm sán chó –BỆNH ĐỂ LÂU NGÀY SÁN SẼ LÊN TỚI NÃO GÂY HÔN MÊ SÂU.

Xét nghiệm ký sinh trùng ở Đà Nẵng

Nếu được xét nghiệm và điều trị kịp thời có thể khỏi hoàn toàn, do đó bạn nên xét nghiệm ký sinh trùng định kỳ 6 tháng đến 1 năm một lần. Cho cả người lớn và trẻ em là việc cần làm để bảo vệ sức khỏe của bạn và người thân.

Phòng khám chẩn đoán Medic Sài Gòn hân hạnh được phục vụ

Phòng khám chúng tôi luôn có bác sĩ, y tá xét nghiệm tư vấn tại Đà Nẵng mọi nơi mọi lúc khi quý khách hàng cần, luôn lấy cái Tâm để phục vụ Hãy liên hệ Phòng khám chẩn đoán Medic Sài Gòn để được tư vấn Địa chỉ 97 Hải Phòng, Hải Châu, Đà Nẵng ? Hotline: 091 555 1519 ? ? Zalo: 0914 496 516www.phongkhammedic.com, chúng tôi xetnghiemdanang.com

Dấu Hiệu Nhận Biết Mèo Bị Nhiễm Giun Sán

Giun sán là một trong những ký sinh trùng nguy hiểm. Khi xâm nhập vào cơ thể mèo, giun sán có thể khiến mèo tử vong. Đôi khi, giun sán sẽ được truyền từ mèo mẹ sang mèo con. Vậy làm sao để nhận biết mèo bị nhiễm giun sán?

1. Bụng mèo phình to

Mèo chứa quá nhiều giun thường có phần bụng phình to nhưng không có mỡ bao quanh cột sống hay xương chậu. Bụng mèo sẽ phình căng, tròn đầy, lặc lè. Điểm khác biệt giữa mèo bị phình bụng và mèo mập đó là phần còn lại của cơ thể khá còi cọc.

2. Lông bết dính

Ký sinh trùng đường ruột hút hầu hết chất dinh dưỡng trong thức ăn của mèo. Điều đó có nghĩa là mèo nhà bạn sẽ không được cung cấp vitamin, khoáng, và đạm để duy trì bộ lông đẹp. Hãy xem bộ lông có các đặc điểm như:

3. Có u dọc sống lưng

Khi lướt ngón tay trên sống lưng mèo khỏe mạnh, bạn sẽ cảm nhận được các cục u dọc xương sống, chứ không có xương góc cạnh lồi lên. Đó là những đệm mỡ của mèo. Mèo bị nhiễm giun nặng sẽ không có những miếng mỡ này. Khi vuốt xương sống và xương chậu của mèo, bạn cũng sẽ thấy nhọn và góc cạnh.

4. Mèo có thể ói hoặc tiêu chảy

Giun sán có thể gây khó chịu dạ dày và niêm mạc ruột, gây tiêu chảy và ói mửa. Mèo bị nhiễm giun nặng có thể bị tắc ruột, gây nôn mửa nặng, có thể nguy hiểm đến tính mạng. Mèo cũng có thể nôn ra giun, trông như sợi mì đang ngoe nguẩy.

5. Mèo bị chảy máu chân răng

Vài loại giun, nhất là giun móc có thể khiến mèo bị chảy máu lợi, gây mất máu chậm nhưng liên tục. Điều này dẫn đến thiếu máu, mèo chậm chạp và yếu đi, ở mèo con có thể nguy hiểm tính mạng.

6. Mèo có bọ chét

Bọ chét mang theo trứng sán dây, khi mèo liếm lông, chúng có thể ăn cả con bọ chét và mang trứng sán dây vào cơ thể. Nếu phát hiện phân bọ chét hay bọ chét, bạn cần chữa trị cho mèo và xử lý môi trường xung quanh để chúng không còn đất sống.

Việc xác định mèo nhiễm giun và loại giun chúng bị nhiễm sẽ giúp cho mèo nhà bạn sống khỏe mạnh nhất có thể. Ngoài ra, giun sán ở mèo cũng có thể lây sang người, nhất là trẻ con vốn không rửa tay cẩn thận sau khi chơi với mèo. Với một chút chú ý đến sức khỏe mèo, chậu cát mèo và mang phân đi phân tích mỗi năm một lần, bạn có thể giữ cho mèo nhà mình và các thành viên gia đình sạch giun.

Nếu bạn phát hiện mèo có những dấu hiệu bất thường trên, hãy nhanh chóng đưa các bé đến ngay gần nhất để được các bác sĩ thú y điều trị kịp thời.

Khi cần chăm sóc thú cưng của bạn đừng quên tới Bệnh Viện Thú Y Thi Thi.

LIÊN HỆ VỚI CHÚNG TÔI

Cơ sở 1: Số 62B, Đường Hòa Bình, P.5, Q.11, TP.HCM.

Cơ sở 2: 651 Lạc Long Quân, P.10, Q. Tân Bình, TP.HCM.

Cơ Sở 3: 96 Bạch Đằng , P.24 , Q. Bình Thạnh, TP. HCM

Hạnh Nguyễn

Bài 59: Biểu Hiện Ngoài Da Do Nhiễm Giun, Sán

(Relationship between helminths and cutaneuos signs)

1. ĐẠI CƯƠNG

Giun sán gây bệnh da được chia làm 3 nhóm là: giun tròn (round worms), sán lá gan (flukes) và sán dây (tapeworms) hay còn gọi là sán xơ mít. Vòng đời của các loại giun sán này rất phức tạp. Sau khi đã hoàn thành một chu kỳ từ giai đoạn ấu trùng đến giun sán trưởng thành thì chúng kí sinh ở vật chủ chính là người. Ngược lại giun sán ở động vật không thể phát triển ở người đến giai đoạn trưởng thành, mặc dù khi người bệnh bị nhiễm những giun sán này vẫn có thể gây tổn thương cho các cơ quan và biểu hiện những triệu chứng lâm sàng.

Các loại giun sán nhiễm vào người gây những thương tổn da khác nhau. Trong chu kỳ phát triển, tùy theo từng giai đoạn, tùy từng loại giun sán thì có những biểu hiện ngoài da ở một hoặc nhiều giai đoạn (giai đoạn thâm nhập, giai đoạn xâm lấn lan tràn cấp tính hay giai đoạn mạn tính).

Giai đoạn thâm nhập, các triệu chứng ngoài da chỉ gặp ở những loại giun sán vào cơ thể người bằng cách thâm nhập qua da. Những trường hợp này, các triệu chứng lâm sàng tồn tại trong thời gian ngắn. Đối với giun sán ở người giai đoạn này tồn tại dài hơn so với giun sán ở động vật. Ví dụ như giun móc ở động vật gây bệnh ấu trùng di chuyển dưới da.

Giai đoạn cấp tính còn gọi là giai đoạn xâm lấn lan tỏa của chu kỳ giun sán. Thương tổn da tiên phát thường là sẩn mày đay, có thể tồn tại trong thời gian ngắn nếu giun sán được cơ thể con người dung nạp. Ngược lại, nếu cơ thể con người chưa dung nạp thì các sẩn mày đay này sẽ tồn tại kéo dài trong vài tuần thậm chí đến vài tháng. Ví dụ như trường hợp nhiễm giun sán gây hội chứng ấu trùng di chuyển nội tạng.

Nhiễm giun sán là một trong những nguyên nhân gây bệnh tật, gây tử vong cho người ở các nước nhiệt đới và các nước đang phát triển. Nhiều người bị nhiễm giun sán có thương tổn da và các mô mềm.

Một số loại giun sán có thể tồn tại nhiều năm trong ơ thể người với các triệu chứng ban đầu và các triệu chứng phát sinh theo năm tháng từ sau khi bị nhiễm bệnh.

Tăng bạch cầu ái toan và các biểu hiện quá mẫn thường xảy ra trong giai đoạn giun sán di chuyển ở các mô.

2. GIUN TRÒN ( Roundworms)

2.1. Bệnh giun đũa ( Ascariasis) 2.1.1 Đặc điểm tình hình và sinh bệnh học

Giun đũa gặp ở khắp nơi trên thế giới Tỷ lệ nhiễm giun đũa cao ở trẻ em, ở các khu vực khí hậu nóng ẩm và các vùng dân cư đông đúc, nghèo đói, điều kiện vệ sinh kém. Đất sét, đát dẻo là môi trường thuận lợi để trứng giun đũa lưu tồn.

Căn nguyên và sinh bệnh học: Bệnh giun đũa là do Ascaris lumbricoides, đôi khi do A. suum, A. lumbricoides, là loại giun tròn đường ruột lớn nhất (con cái có chiều dài từ 20-25 cm và đường kính 3-6 mm, con đực dài 15-17 cm). Người bị nhiễm giun đũa là do ăn phải trứng giun từ phân người thải ra tồn lưu trong đấtt cats rồi lẫn vào rau, quả, nước uống hoặc tay bẩn. Cho nên, bệnh giun đũa được xếp vào nhóm bệnh do kí sinh trùng truyền qua đất.

Chu kỳ phát triển của giun đũa: giun đũa trưởng thành thường ký sinh ở ruột non của người. mỗi con giun đũa cái có thể đẻ 2.400.000 trứng mỗi ngày. Trứng thụ tinh và trứng không thụ tinh được bài xuất ra ngoài. Sau 18 ngày đến vài tuần, tùy theo điều kiện thuận lợi của môi trường (ẩm ướt, ấm áp, bóng râm), trứng thụ tinh có phôi sẽ phát triển thành trứng có ấu trùng. Khi người nuốt phải trứng, ấu trùng sẽ ra khỏi vỏ trứng, thâm nhập qua thành ruột, theo tĩnh mạch cửa và hệ thống tuần hoàn đến phổi. Ấu trùng phát triển ở phổi trong khoảng 10-14 ngày rồi chui qua thành phế nang lên phế quản đến hầu. Ấu trùng theo thực quản xuống ruột non phát triển thành giun trưởng thành. Từ khi nuốt phải trứng giai đoạn nhiễm đến khi thành giun cái trưởng thành và đẻ trứng khoảng 2-3 tháng.

Thương tổn da: sẩn ngứa, nổi mày đay thường xảy ra ở giai đoạn xâm lấn lan tràn của ấu trùng giun, có thể kèm theo hội chứng Loeffler (ho, khò khè, khó thở), sốt và các triệu chứng dạ dày-ruột không đển hình. Các triệu chứng này sẽ tự biến mất ở cuối giai đoạn xâm lấn

Chẩn đoán phân biệt với sẩn ngứa, mày đay do các nguyên nhân khác.

Chẩn đoán lâm sàng: với các triệu chứng ngoài da, ở đường tiêu hóa hay biểu hiện toàn thân thì không đặc hiệu. Chẩn đoán xác định nhiễm giun đũa trưởng thành ở đường tiêu hóa khi tìm thấy trứng giun đũa trong phân.

2.1.3. Xét nghiệm

Tăng bạch cầu ưa acid ở máu ngoại biên, nhất là giai đoạn xâm lấn.

Tăng IgE trong huyết thanh.

Tìm trứng giun đũa trong phân.

Đôi khi phát hiện giun trưởng thành theo phân ra ngoài hoặc thấy giun ngoi lên hầu, họng hoặc thấy giun khi phẫu thuật ổ bụng.

Có thể tìm thấy ấu trùng giun đũa ở nước bọt hay dịch rửa dạ dày

X-quang ở giai đoạn sớm khi bị nhiễm giun đũa có thể thấy thâm nhiễm thoáng qua ở cả hai bên phổi.

2.2. Giun kim (Threadworm) 2.2.1. Đặc điểm tình hình và sinh bệnh học

Là bệnh giun thường gặp ở trẻ em ( Enterobiasis). Bệnh phổ biến ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở các nước công nghiệp hóa.

Giun kim thường gặp ở trẻ em là Enterobius vermicularis. Người là vật chủ duy nhất. Lây nhiễm trứng của Enterobius vermicularis có thể trực tiếp từ hậu môn lên miệng qua các ngón tay hay qua quan hệ tình dục hoặc có thể qua các đồ dùng có nhiễm trứng giun vài trải giường, quần áo, nhà tắm, chất thải của người hoặc hít, nuốt phải trứng giun trong bụi. Bênh giun kim cũng được xếp vào nhóm ệnh do kí sinh trùng truyền qua đất.

Giun kim đẻ trứng ở nếp gấp hậu môn. Ấu trùng bên trong trứng phát triển sau 4-6 giờ. Sau khi nuốt phải trứng (giai đoạn nhiễm ), đến ruột non, ấu trùng thoát khỏi vỏ phát triển thành giun trưởng thành rồi kí sinh ở ruột già. Thời gian từ khi nuốt phải trứng cho đến khi phát triển thành giun trưởng thành và đẻ trứng mất khoảng 1 tháng. Giun kim trưởng thành có thể sống khoảng 2 tháng. Ban đem giun cái có trứng di chuyển đến hậu môn và đẻ trứng ở các nếp gấp quanh hậu môn. Cũng có thể ấu trùng mới nở từ vùng da quanh hậu môn bò ngược lên trực tràng.

2.2.2. Triệu chứng lâm sàng

Ngứa hậu môn và quanh hậu môn ban đêm là triệu chứng sớm, có thể tìm thấy giun kim ở quanh hậu môn. Da có thể bị bội nhiễm và nguy cơ gây nứt kẽ hậu môn, viêm mô tế bào. Ở phụ nữ đôi khi bị viêm âm hộ, âm đạo do giun kim và có những cục ở vùng âm hộ.

2.2.3. Xét nghiệm :

Các kết quả xét nghiệm sinh hóa, huyết học không có gì đặc biệt, đôi khi thấ tăng ạch cầu ưa acid, thường gặp ở giai đoạn xâm nhập lan tràn của giun.

2.3. Bệnh giun móc (Hookworm disease, Uncinariasis) 2.3.1. Đặc điểm tình hình va sinh bệnh học

Bệnh thường gặp ở nông thôn vùng nhiệt đới và cận nhiêt đới, cũng có tể gặp ở vùng có khí hậu ôn hòa với điều kiện vệ sinh kém. Phần lớn những người mang giun móc không có hoặc có ít triệu chứng.

2.3.2. Căn nguyên

Giun móc /mỏ ở người chủ yếu là do Ancylostoma đuoenale hoặc Necator americanus. Con cái dài 8-11 mm, con đực dài 10-13 mm. trứng có kích thước trung bình 60 um, hình bầu dục, vỏ mỏng, có 4, 8 hay 16 nhân.

Trứng được bài xuất theo phân ra ngoài. Trong điều kiện thuận lợi, trứng có phôi nở trong đất và phát triển thành ấu trùng hình chỉ, lây bệnh sau 5 đến 10 ngày (thoát vỏ 2 lần). Ấu trùng này có khả năng sống trong môi trường tự nhiên từ 3-4 tuần với điều kện thuận lợi. Người là vật chủ chính cho 2 loài giun móc trên. Ấu trùng giun móc thâm nhiễm vào người qua da khi lao động, tiếp xúc trực tiếp với đất cát có nhiễm mầm bệnh hoặc do chăm sóc trẻ đang bị nhiễm giun móc. Bệnh giun móc được xếp vào nhóm bệnh ký sinh trùng truyền qua da.

Sau khi chui qua da, ấu trùng sẽ theo tĩnh mạch đến tim và phổi rồi qua khí phế quản lên hầu, xuống dạ dày, đến ruột non phát triển thành giun trưởng thành. Giun trưởng thành ký sinh trong tá tràng, hỗng tràng hay phần đẩu ruột non, bám vào thành ống tiêu hóa nhờ hấp khẩu có móc hoặc răng sắc. Giun ngoạm sâu dưới lớp niêm mạc ruột gây loét. Khi bị bôi nhiễm vi khuẩn, vết loét có thể sùi như hạt ổi. Vừa hút máu, giun còn tiết ra chất làm chậm đông máu gây chảy máu kéo dài, thậm chí đại tiện có thể thấy phân lẫn màu đen.

Ngoài đường lây nhiễm qua da, giun móc còn qua miệng do ăn phải ấu trùng từ rau sống, tay ẩn, đất bụi. Giun móc nhiễm qua đường miệng, ấu trùng xuống thẳng tá tràng và nở ra giun trưởng thành, không cosquas trình duy chuyển qua máu và các cơ quan nội tạng.

2.3.3. Triệu chứng lâm sàng

Thương tổn da có thể thấy khi ấu trùng giun thâm nhập vào cơ thể hoặc giai đoạn xâm lấn lan tỏa của bệnh. Trong khoảng từ 1-2 ngày sau tại vùng da ấu trùng tiếp xúc và thâm nhập sẽ xuất hiện dát đỏ, nề, sẩn hoặc sẩn phù, thường ở các bàn chân. Các triệu chứng toàn thân ở giai đoạn xâm lấn lan tỏa của giun móc ít biểu hiện hơn so với nhiễm giun đũa. Một số bệnh nhân, ấu trùng di trú vào phổi có thể gây nổi sẩn mày đay và tự biến mất ở cuối giai đoạn này. Các biểu hiện ở phổi ( ho, khè, khó thở), sẩn mày đay có thể xảy ra sau khi giun móc thâm nhập vào cơ thể từ 1-3 tuần. Triệu chứng đường tiêu hóa thường xảy ra sau khoảng 1 tháng.

Giun móc/mỏ trưởng thành hút máu và làm chảy máu ở đường tiêu hóa gây thiế máu ngày một nặng cho nên triệu chứng nổi bật ở giai đoạn này là những biểu hiện lâm sàng do thiếu máu như: chóng mặt hoa mắt, suy tim, da xanh xao, niêm mạc nhợt, phù dinh dưỡng hay phù toàn thân… Có thể phát triển rầm rộ dẫn đến tử vong, đặc biệt là ở trẻ em và phụ nữa có thai.

2.3.4. Xét nghiệm

Tìm thấy trứng giun móc ở phân sau khi nhiễm bệnh từ 4-6 tuần. Ở giai đoạn ấu trùng thâm nhập và khi có các triệu chứng ở phổi, xuất hiện sần mày đay thì xét nghiệm trúng giun âm tính. Không thể phân biệt được trứng giun móc N. americanus và A. duodenale bằng kính hiển vi ánh sáng thường.

2.4 Ấu trùng di cuyển ở da do giun móc (Hookworm-related cutaneous larva migrans- Hr. CLM)

Bệnh gặp ở khắp nơi, nhưng thường thấy nhiều ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Căn nguyên gây bệnh là do ấu trùng giun móc của động vật (mèo, chó), thường gặp ở chủng Ancylostoma braziliense, ngoài ra còn có các chủng khác như: A. caninum uncinaria, stenocephala.

2.4.1. Triệu chứng lâm sàng:

Thời gian từ khi bị lây nhiễm đến khi có những biểu hiện lâm sàng ngắn từ 3-6 ngày. Thương tổn da rất dễ nhận biết với các đặc điểm như: dát đỏ, nổi cao trên mặt da, bọng nước, thành đường vằn vèo dài khoảng 3 mm, có khi đến 15-20 cm. Thương tổn có thể đơn độc hoặc nhiều, rất ngứa, đôi khi đau. Mỗi ngày ấu trùng di chuển lên phía trước từ vài milmet đén vài centimet. Vị trí thường gặp là ở chân và mông. Niêm mạc có thể bị tổn thương, hiếm khi thấy tróc da và chốc hóa.

Nhũng biểu hiện lâm sàng khác có thể gặp là viêm nang lông, tạo thành vài chục đến thành hàng trăm sẩn hay mụn mủ nang lông. Thương tổn khu trú tại một vùng, rất ngứa. Có thể thấy một vài đường hang vằn vèo ở những vùng da khác. Tiến triển từ 2-8 tuần.

2.4.2. Xét nghiệm

Tăng bạch cầu ưa acid thoáng qua. Mô bệnh học thấy aaustrungf ở nang lông, đường hầm ở giữa lớp sừng cùng với thâm nhiễm bạch cầu ưa acid. Cạo thương tổn, soi trên kính hiển vi có thể thấy ấu trùng còn sống hay đã chết.

2.4.3. Tiến triển: bệnh có thể tự khỏi trong vòng từ 4-8 tuần. 2.5. Bệnh giun chỉ bạch mạch (Lymphatic Filariasis) 2.5.1. Đặc điểm tình hình và sinh bệnh học

Giun chỉ bạch gặp nhiều ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới như Ấn Độ, Đông Á, Nam Á, châu Đại Dương, châu Phi.

2.5.2. Căn nguyên và sinh bệnh học

Giun chỉ bạch mạch do 3 loài là: Brugia malayi, Brugia timori và Wuchereria bancrofit, được truyền qua muỗi. Ở Việt Nam, cho đến nay mới phát hiện được hai loài giun chỉ gây bệnh bạch mạch ở người: miền Bắc chủ yếu là loài Brugia malayi, miền Nam là loài Wuchereria bancrofit.

Giun chỉ trưởng thành sống trong hệ bạch mạch của người, có tuổi thọ từ 4-6 năm, có khi đến 40 năm. Giun chỉ cái và giun chỉ đực sống cùng nhau, cuộn tròn như cuộn chỉ, màu trắng sữa, con đực dài 4cm, con cái dài 8-10 cm.

Lây truyền bệnh giun chỉ từ người này sang người khác qua vật chủ trung gian là muỗi. Muỗi hút máu người có ấu trùng giun chỉ. Ấu trùng vào dạ dày của muỗi rồi xuyên qua thành dạ dày, sau đó di chuyển đến cơ ngực. Tại đây, ấu trùng phát triển qua 3 giai đoạn để trở thành ấu trùng gây nhiễm. Thời gian từ khi ấu trùng vào cơ thể muỗi cho đến giai đoạn ấu trùng gây nhiễm khoảng 10-14 ngày. Ấu trùng gây nhiễm di chuyển đến vòi muỗi và truyền sang người khác khi hút máu. Ấu trùng giun chỉ sẽ đến hệ thống bạch huyết phát triển thành giun chỉ trưởng thành và sống trong hệ thống bạch huyết của người. Giun chỉ trưởng thành đẻ ra ấu trùng. Ấu trùng lưu thông trong máu và thường xuất hiện ở máu ngoại vi vào ban đêm.

2.5.3. Triệu chứng lâm sàng

Thời kì ủ bệnh thường kéo dài từ 3-18 tháng. Đối với ấu trùng giun chỉ B. malayi có thể ủ bệnh ngắn hơn từ 2-3 tháng sau khi bị phơi nhiễm. Ấu trùng giun chỉ W. bancrofit xuất hiện đầu tiên trong máu ngoại vi là từ 8-12 tháng, nhưng triệu chứng lâm sàng thì xuất hiện sớm hơn từ 1-2 tháng sau khi bị phơi nhiễm. Triệu chứng và các di chứng do giun chỉ gây nên sẽ tồn tại kéo dài sau khi chúng đã chết.

Bệnh giun chỉ bạch mạch gây tàn tật cho người lớn, đôi khi gặp ở trẻ em. Những thương tổn bạch mạch đầu tiên thường để lại di chứng sau nhiều năm, nhưng thường có những biếu hiện lâm sàng không rõ ràng như viêm bạch mạch tái diễn hay viêm hạch không đặc hiệu. Những triệu chứng lâm sàng đặc trưng của bệnh nhiễm giun chỉ mạn tính sau nhiều năm mới xuất hiện. Ở vùng dịch tễ, tỷ lệ bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng tăng ở độ tuổi từ 20 trở lên. Biểu hiện từ nhẹ đến mức độ rất nặng gây mất khả năng lao động (chiếm dưới 1%).

Các triệu chứng cấp tính: sốt cao xuất hiện đột ngột, kèm theo mệt mỏi và nhức đầu. Triệu chứng sớm ở da là viêm bạch mạch và hạch bạch huyết thường xảy ra sau sốt vài ngày. Biểu hiện viêm đỏ, đau dọc theo đường bạch mạch, thường gặp ở mặt trong chỉ dưới cùng với hạch bẹn sưng đau. Có thể thấy viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn. Sau giai đoạn cấp tính thoái lui sẽ gây bong da lan tỏa tại vùng tổn thương. Sốt cách quãng và viêm bạch mạch thường tái phát từng đợt, mỗi đợt kéo dài 3-7 ngày, tần suất 6-10 ngày mỗi năm, kéo dài trong khoảng 20 năm.

Các triệu chứng mạng tính thường gặp: nhiễm giun chỉ mạn tính kéo dài sau 10-15 năm sẽ thấy rõ những di chứng do bít tắc hạch mạch và hạch bạch huyết, gây phù voi, tràn dịch màng tinh hoàn, đái dưỡng chấp. Da vùng bị tổn thương tăng sinh, sần sùi như hạt cơm, nếp da hằn sâu xuống, nứt nẻ, loét, có thể hoại thư. Hay bị nhiễm trùng thứ phát.

Vị trí thương tổn phù voi hay gặp là ở chi dưới, da bìu và dương vật, ít gặp hơn là ở chi trên, vú và bộ phận sinh dục nữ. Đái dưỡng chấp khi thấy nước tiểu đục như nước vo gạo, để lâu không lắng, đôi khi lẫn máu. Trường hợp lượng dưỡng chấp trong nước tiểu nhiều, để lâu nước tiểu có thể đông lại.

2.5.4. Xét nghiệm

Tăng bạch cầu ưa acid, tăng IgE trong máu, X-quang có thể thấy thâm nhiễm. Xét nghịm đặc hiệu là tìm thấy ấu trùng giun chỉ trong máu, nước tiểu, các dịch khác và các mô của cơ thể, nhất là vào nữa đêm. Có thể tìm thấy giun chỉ trưởng thành ở bạch mạch trên tiêu bản sinh thiết mô thương tổn. Chống chỉ định sinh thiết hạch. Phản ứng huyết thanh bị hạn chế bởi phản ứng chéo với các giun tròn khác. Có thể chẩn đoán PCR.

2.5.5 Dự phòng

Tránh muỗi đốt khi đến vùng dịch tễ, điều trị ấu trùng để làm giảm nguồn gây bệnh. Diệt muỗi bằng các biện pháp cơ học, hóa học và sinh học.

3. SÁN MÁNG (Schistosomiasis)

3.1. Đặc điểm tình hình và sinh bệnh học

Sán máng là một loại sán dẹt, có con đực và con cái riêng biệt, sống chủ yếu trong hệ tuần hoàn và hút máu. Tùy theo từng loại, chúng ký sinh ở các hệ tĩnh mạch của các cơ quan khác nhau. Có 5 loại sán máng gây bệnh ở người. Trong đó có 3 loài gây bệnh cho người nhiều nhất là S. hamatobium; S. mansoni và S. japonicum. Ít gặp hơn là các loài S. mekongi và S. intercalatum.

Sán máng ký sinh ở các nhánh mạc treo của hệ tĩnh mạch cửa, lách, bàng quang. Con cái và con đực cuộn với nhau, sau khi giao hợp với con đực, con cái rời bỏ con đực đi ngược chiều máu chảy tới những huyết quản nhỏ để đẻ trứng. Số lượng trứng không nhiều nhưng có gai, những gai này làm rách nội mạc vi quản để ra ngoài cơ thể, khi gặp nước chúng phát triển thành trùng lông. Trùng lông bơi trong nước để tìm đến vật chủ trung gian là ốc. Chúng phát triển thành ốc trong thời gan từ 4-6 tuần để thành trùng đuôi ( đuôi xẻ đôi). Trùng đuôi rời khỏi ốc bơi tự do trong nước, khi gặp người bơi lội, trùng đuôi sẽ xâm nhập vào người qua da. Khi chui qua da, trùng đuôi gây viêm da, sau đó vào các mao mạch bạch huyết rồi theo đường tuần hoàn đến cư trú ở hệ tĩnh mạch cửa. Sau khoảng 60 ngày trùng đuôi sẽ trở thành sán trưởng thành. Sán máng trưởng thành có thể sống trong cơ thể người từ 3-10 năm hoặc lâu hơn. Trên 60% trứng do sán cái trưởng thành đẻ lưu lại trong mô và trong máu ngoại vi, phần còn lại ở trong ruột và bàng quang sau đó được đào thải ra ngoài.

3.2. Biểu hiện lâm sàng:

Từ nhẹ đến nặng, một số ít trường hợp xảy ra cấp tính với các triệu chứng; sốt; đau cơ, đau đầu kéo dài 1-2 tuần hoặc là lâu hơn. Thương tổn da có thể xuất hiện ở tất cả các giai đoạn.

Giai đoạn thâm nhập vào da của ấu trùng sán máng: biểu hiện sớm là sau vài phút, tại vị trí ấu trùng chui qua da sẽ xuất hiện nhưng điểm xuất huyết nhỏ, sau đó nổi sẩn đỏ, sẩn phù thành từng đám và ngứa. Ở những bệnh nhân bị nhiễm nhiều ấu trùng sán máng có thể có những biểu hiện toàn thân như nhức đầu, đau các chi, rét run, ban đêm đổ mồ hôi, bạch cầu ái toan tăng (có thể tới 20-60% ). Các triệu chứng lâm sàng này thường biến mất sau 1 tuần. Giai đoạn xâm lấn lan tỏa nổi mày đay, xuất huyết da, xuất huyết dưới móng, phù nề ở mặt, chi, vùng sinh dục và thân mình.

Giai đoạn mạn tính: phản ứng u hạt do lắng đọng trứng sán trong da tạo thành các sẩn 2-4 mm, hình bầu dục, chắc, sẫm màu, có khi thành đám, không thay đổi nếu không được điều trị. Giai đoạn muộn có thể thấy các cục màu hồng hoặc nâu. Các sẩn có thể sùi như hạt cơm, đôi khi loét, phù bạch mạch, phù voi. Vị trí thường tổn thương hay gặp là ở vùng quanh rốn, ngoài ra cũng có thể thấy ở vùng mông, sinh dục.

Khi sán đẻ trứng, tùy từng loại sán mà có những biểu hiện lâm sàng khác nhau. Đối với S. hamatobium triệu chứng tiết niệu là nổi bật. Bệnh nhân có thể đái máu kèm theo đái rắt, đái buốt, đôi khi chỉ thấy sốt thoáng qua, nổi mày đay. Trường hượp đái máu, kiết lỵ nặng có thể gây tử vong. Đối với S. mansoni triệu chứng chủ yếu là đại tiện ra máu do ruột bị loét, gan lách to, kèm theo sốt, thiếu máu nặng, sa trực tràng. Đối với S.japonicum chủ yếu là gan rất to và xơ hóa, lách to và đau, giai đoạn cuối xuất hiện cổ chướng…

3.3, Xét nghiệm:

Tăng bạch cầu ái toan, nhất là giai đoạn xâm lấn lan tỏa.

Xét nghiệm đặc hiệu tìm trứng sán trong phân và nước tiểu hay sinh thiết trực tràng, bàng quang hoặc các mô khác. Chẩn đoán huyết thanh dương tính sau khi bị nhiễm ấu trùng sán 6 tuần.

4. BỆNH NANG SÁN (Cysticcercosis)

4.1. Đặc điểm tình hình và sinh bệnh học

Bệnh nang sán còn gọi là bệnh ấu trùng sán lợn (Bệnh người gạo). Căn nguyên do ấu trùng của sán đay lợn (Taenia solium). Ở người, Taenia solium nhiễm cả vào đường tiêu hóa dạng sán trưởng thành và gây bệnh nang sán dạng ấu trùng. Người có thể tự lây nhiễm bệnh nang sán. Người ta thấy có khoảng 25-50% bệnh nhân bị bệnh nang sán có kèm thao sán đường ruột. Bị nhiễm sán trưởng thành ở đường ruột là do ăn phải thức ăn sống hoặc chưa nấu chín có chứa nang sán gạo. Ấu trùng sán lợn sẽ bám vào thành ruột non và phát triển thành sán trưởng thành. Trứng của sán trưởng thành trong ruột non đào thải theo phân ra ngoài và sống được nhiều tuần ngoài môi trường tự nhiên.

Bệnh ấu trùng sán lợn ở người là do ăn phải trứng sán dây lợn. Nang ấu trùng sán dây lợn hình bầu dục, kích thước 0,5 x 1,5-2 mm, chứa dịch trắng đục và đầu sán với 4 giác bám và 2 vòng móc.

4.2. Biểu hiện lâm sàng

Khác nhau từ không có triệu chứng đến rất nặng có thể gây nguy hại đến tính mạng. Khoảng một nửa số bệnh nhân bị bệnh sán gạo thấy các cục ở dưới da. Thời gian từ khi nhiễm bệnh đến khi xuất hiện các cục dưới da rất khác nhau từ vài tháng đến vài năm. Nang sán gạo có thể tồn lưu ở người từ 10 đến 15 năm. Các triệu chứng có thể tồn tại lâu sau khi ấu trùng đã chết.

Thương tổn ở dưới da là các cục giới hạn rõ, kích thước bằng hạt đậu hoặc hạt dẻ, tròn, chắc, không đau, di động trên nền sâu và lăn dưới da, màu da ở trên bình thường. Số lượng có thể ít hoặc nhiều. Vị trí ở các chi, mặt trong cánh tay, thân mình, có thể thấy ở niêm mạc miệng hoặc bất cứ nơi nào, có tính chất đối xứng.

Ngoài những nang sán thấy ở dưới da, còn thấy nang sán ở bắp cơ, mắt và hệ thống thần kinh trung ương cũng như ở các cơ quan nội tạng khác như tim, thận, tụy, gan, phổi. Khoảng 50% bệnh nhân có nang sán ở thần kinh trung ương, có thể gây động kinh, liệt tay, chân hay liệt nửa người, nói ngọng, rối loạn trí nhớ hoặc nhức đầu dữ dội…tùy thuộc vị trí ký sinh của ấu trùng trong não. Nang sán ở mắt có thể gây tăng nhãn áp, giảm thị lực hoặc mù.

(Tài liệu được biên soạn bởi PGS. TS. Trần Văn Tiến của Bộ môn Da liễu, trường Đại học Y Hà Nội)

Nhiễm Giun Đũa Người: Bệnh Giun Sán Phổ Biến Nhất

Giun đũa là một trong những loài giun tròn phổ biến và có mặt trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, đây là loại kí sinh trùng gây bệnh hàng đầu trong các loài giun sán đường ruột. Giun đũa có vật chủ là người và các loài động vật như chó, mèo, lợn. Trong bài viết này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu kĩ hơn về giun đũa kí sinh trên người.

Giun đũa người có tên khoa học là Ascaris lumbricoides. Đây là loài giun có kích thước lớn nhất. Chiều dài có thể lên tới 35 cm ( gần bằng 2 gan tay người lớn).

Chu kì sống của giun đũa trải qua 2 môi trường: trong cơ thể người và trong đất. Giun trưởng thành sinh sống, giao phối và đẻ trứng trong ruột người. Trứng theo phân ra ngoài, gặp đất và khí hậu thuận lợi (nóng, ẩm, ướt) sẽ phát triển thành trứng mang ấu trùng. Con người nuốt phải trứng này sẽ nhiễm bệnh. Sau khi vào ruột non, ấu trùng ra khỏi trứng, chu du trong cơ thể và trưởng thành, tiếp tục sinh sản.

Với đặc điểm trên, giun đũa được xếp vào nhóm “Giun truyền qua đất”, cùng với giun kim, giun tóc, giun móc/giun mỏ.

Việt Nam với khí hậu nóng ẩm là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của giun đũa. Ở những vùng điều kiện vệ sinh kém, phân người thải trực tiếp ra đất hoặc được dùng làm phân bón. Khi đó, trứng giun đũa trong phân sẽ tồn tại và phát triển trong đất, trên bề mặt rau quả.

Con người có thể bị nhiễm giun đũa khi:

Tay tiếp xúc với đất bẩn rồi đưa lên miệng.

Trẻ em hay chơi đùa trên mặt đất bẩn.

Sử dụng rau quả chưa được rửa sạch.

Giun đũa gây bệnh cả khi ở dạng ấu trùng và lúc trưởng thành.

Sau khi con người nuốt trứng giun vào, ấu trùng chui ra, xuyên thành ruột và theo hệ mạch từ ruột lên đến phổi. Sự xuất hiện của chúng kích thích hệ miễn dịch cơ thể sản sinh nhiều bạch cầu ái toan. Những phản ứng miễn dịch này tại phổi gây nên các triệu chứng hô hấp được gọi là hội chứng Loeffler. (Ghi chú: bạch cầu ái toan là một loại tế bào miễn dịch được sản sinh ra để chống lại các loại kí sinh trùng hay các vật lạ gây dị ứng).

Ấu trùng đi qua thành phế nang vào phế quản, ngược lên khí quản, thực quản rồi được nuốt xuống lại ruột non. Tại đây, ấu trùng phát triển thành giun trưởng thành. Giun gây các triệu chứng bệnh tại ruột tùy thuộc vào mức độ nhiễm nặng hay nhẹ.

Trong quá trình chu du và phát triển của mình, ấu trùng hay giun trưởng thành có thể “đi lạc” sang các cơ quan khác. Hiện tượng này được gọi là giun đi lạc chỗ, gây các triệu chứng cấp tính tại nơi giun đến.

Giun đũa kí sinh trong ruột cạnh tranh các chất dinh dưỡng của cơ thể (đạm, vitamin A, vitamin C..). Nhiễm giun đũa lâu dài làm giảm sự phát triển trí thông minh và chiều cao cân nặng của trẻ.

Nhiễm giun đũa đa số không gây triệu chứng, hoặc triệu chứng nhẹ ở bụng. Triệu chứng nặng và cấp tính khi cơ thể nhiễm giun số lượng lớn.

Bệnh do giun đũa gây ra thường biểu hiện 2 nhóm chính:

Khi giun ở giai đoạn ấu trùng di chuyển từ ruột lên phổi. Người nhiễm có các biểu hiện như trong viêm phổi, hen suyễn:

Triệu chứng thường tự hết sau vài ngày đến 2 – 3 tuần.

Trong giai đoạn này, ấu trùng kích thích phản ứng dị ứng trong cơ thể. Vì vậy, người bệnh có thể bị nổi mẩn đỏ trên da.

Thường do giun sau khi được nuốt trở lại ruột non, phát triển thành giun trưởng thành và gây bệnh.

Rối loạn tiêu hóa do giun kích thích thành ruột (tiêu chảy, táo bón).

Nôn ói. Người nhiễm có thể nôn ra giun.

Nhiễm giun nặng có thể gây tắc ruột, thường gặp ở trẻ em.

Đau bụng dữ dội trong các bệnh cảnh cấp tính do giun đi lạc (xoắn ruột, thủng ruột, viêm ruột thừa cấp,..).

Vàng da do tắc mật khi giun chui vào đường dẫn mật. Người nhiễm có thể bị tắc ống dẫn mật, áp-xe gan, viêm túi mật cấp.

Ấu trùng hay giun trưởng thành “đi lạc” đến đâu có khả năng gây bệnh tại cơ quan đó. Người nhiễm giun đũa có thể bị rối loạn thần kinh (co giật, động kinh), phù mí mắt, viêm giác mạc, u hạt ở mắt hay ở não.

Đồng thời, người bệnh có các triệu chứng nhiễm giun chung toàn thân như mệt mỏi, khó chịu toàn thân, ăn kém. Nhiễm giun lâu dài dẫn đến tình trạng phát triển thể chất kém do rối loạn hấp thu dinh dưỡng.

Phương pháp tiêu chuẩn là soi phân tìm trứng giun đũa trong phân bằng kính hiển vi.

Đôi lúc người bệnh khạc ra, nôn ra giun hoặc giun chui ra từ mũi, hậu môn. Trong trường hợp này, người bệnh cần đem mẫu đàm, dịch nôn hay mẫu phân chứa giun này đến cơ quan y tế để kiểm tra xác định.

Ngoài ra, chúng ta có các xét nghiệm hỗ trợ việc chẩn đoán giun đũa:

Xét nghiệm công thức máu: có thể thấy sự tăng lượng bạch cầu trong cơ thể, đặc biệt là bạch cầu ưa axit Eosinophil. Tỉ lệ bạch cầu này thường tăng trong bệnh cảnh nhiễm kí sinh trùng.

X – quang phổi: có thể thấy hình ảnh thâm nhiễm phổi trong hội chứng Loeffler. Trong một số trường hợp, chúng ta có thể thấy hình ảnh giun khi chụp với chất cản quang.

Tùy vào triệu chứng và chẩn đoán của bác sĩ mà xét nghiệm nào được đề nghị làm. Chúng ta có thể thấy được sự xuất hiện của giun trưởng thành trên hình ảnh học.

Điều trị chỉ có kết quả khi giun ở giai đoạn trưởng thành.

Thuốc được sử dụng là Mebendazole, Albendazole hoặc Pyrantel pamoate. Liều dùng tùy thuộc vào nhiễm giun đũa đơn thuần hay nhiễm kèm các loại giun sán khác.

Một số thuốc có chống chỉ định cho trẻ dưới 2 tuổi, phụ nữ có thai 3 tháng đầu hay cho con bú… Vì vậy, cần đến khám và sử dụng thuốc theo y lệnh của bác sĩ.

Bên cạnh đó, cần điều trị các biến chứng tại chỗ do giun gây ra trong quá trình di trú. Viêm phổi do giun đáp ứng tốt với thuốc kháng viêm. Giun gây viêm, tắc đường mật, tắc ruột được điều trị với thuốc giảm đau, giảm co thắt và các thuốc hỗ trợ khác.

Thuốc tẩy giun được sử dụng sau khi hết các triệu chứng đau cấp và chức năng ruột được hồi phục.

Trường hợp các điều trị nội khoa thất bại, người bệnh vào bệnh cảnh cấp tính nguy hiểm, bác sĩ sẽ cho chỉ định phẫu thuật.

Tẩy giun định kỳ.

Vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường sống xung quanh, xây dựng hố xí hợp vệ sinh.

Giáo dục trẻ em và nâng cao ý thức mọi người về tầm quan trọng của việc rửa tay.

Rửa tay bằng xà phòng trước khi nấu ăn, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.

Rau củ quả cần được rửa sạch, gọt vỏ hoặc nấu chín cẩn thận trước khi ăn.

Tránh tiếp xúc với đất bẩn, đặc biệt là ở những vùng có thói quen dùng phân người bón cho cây trồng.

Cập nhật thông tin chi tiết về 5 Dấu Hiệu Nhận Biết Ngứa Do Nhiễm Giun Sán trên website Zqnx.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!